Sử Trung Quốc

“Dịch Trung Thiên bình Tam Quốc” – 01: Đại giang đông khứ

Bài này dịch từ transcript loạt video bình luận Tam Quốc nổi tiếng của học giả Dịch Trung Thiên.

Nguồn: Biên Soạn
0 views

Đây là một sân khấu “chân vạc” ba bên, nơi từng đi qua một lớp anh hùng cá tính bừng nở. Thế nhưng, đây đồng thời là một giai đoạn lịch sử bị màn “diễn nghĩa” che phủ. Tam Quốc rốt cuộc là truyền kỳ của anh hùng, hay là cuộc so tài của bậc trí giả? Xuyên qua sương mù diễn nghĩa, phóng mắt nhìn mây gió lịch sử, kính mời theo dõi “Dịch Trung Thiên bình Tam Quốc” – Đại giang đông khứ.

Dịch Trung Thiên:

Chào các bạn khán giả, từ hôm nay chúng ta bắt đầu nói về Tam Quốc. Tam Quốc là một thời đại như thế nào? Là một thời loạn, thời khổ nạn, đồng thời cũng là một thời đại của anh hùng. Ta biết rằng từ khi Tần Thủy Hoàng thôn tính thiên hạ, nơi này đã lập nên một quốc gia thống nhất; hai triều Tần–Hán đều là những quốc gia thống nhất. Thế nhưng đến cuối Đông Hán, trước khi Tây Tấn thống nhất, đã xuất hiện một thời đoạn đặc biệt, chính là cái ta thường gọi là Tam Quốc. Tào Tháo từng có thơ viết về thời đại ấy:

Bạch cốt lộ vu dã,
thiên lý vô kê minh
– xương trắng phơi đầy nội dã,
ngàn dặm không nghe tiếng gà gáy.

Nhưng đồng thời, đó lại là thời đại của anh hùng. Vì sao? Bởi thương hải ba đào mới hiện anh hùng; trong một thời thế như vậy, có rất nhiều người vì đại nghiệp tái thống nhất mà dốc hết trí tuệ của mình. Chẳng hạn Tào Tháo hùng tài đại lược, Gia Cát Lượng “cúc cung tận tụy”, Chu Du phong lưu tiêu sái, Lưu Bị kiên nhẫn bất拔—đều là anh hùng của thời đại ấy.

Nói riêng Chu Du. Những ai đã đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa, nghe bình thư Tam Quốc, xem hí kịch Tam Quốc, thường dễ sinh một ảo giác: dường như Chu Du là người bụng dạ hẹp hòi. Bởi ta nhớ chuyện “ba lần chọc giận Chu Du”, nhớ cái gọi là danh ngôn “đã sinh Du, sao còn sinh Lượng”, nhớ câu cửa miệng “Chu lang diệu kế an thiên hạ, mất cả vợ lẫn quân”. Nhưng thực tế không phải thế. Chu Du là một nhân vật vừa trung thành vừa anh hùng. Năm hai mươi bốn tuổi, ông đã được Tôn Sách bổ nhiệm làm Kiến Uy Trung lang tướng, bắt đầu dựng công lập nghiệp. Cũng ngay năm ấy, chàng đồng niên Tôn Sách cùng ông rước về hai mỹ nhân lừng danh khi đó: Đại KiềuTiểu Kiều. Có thể nói Chu Du là người thiếu niên đắc chí, xuân phong đắc ý: người thì tuấn tú, việc làm cũng đẹp đẽ. Khi ấy “Ngô trung hô vi Chu lang”—chữ lang vốn nghĩa là “chàng trai”, ở đây lại mang ý tán dương. Dân vùng Ngô gọi Tôn Sách là Tôn lang, gọi Chu Du là Chu lang—dịch nôm na thời nay, thì là “Tôn soái ca, Chu soái ca”.

Về sau, Tô Đông Pha khi làm từ Xích Bích nhắc đến ông, cũng tràn đầy kính phục và mến mộ:

“Dao tưởng Công Cẩn đương niên,
Tiểu Kiều sơ giá liễu, hùng tư anh phát.
Vũ phiến luân cân, đàm tiếu gian,
tường lỗ hôi phi yên diệt.”

Vũ phiến là quạt lông, luân cân là khăn lụa xanh—vốn là trang phục thường dân. Ta biết thời Hán, lại còn trước đó thời Chu, quý tộc và quan lại đều đội mũ, đội quan—cái gọi là “Nga quan bác đái, nãi Hán quan uy nghi”: mũ cao áo rộng, đó là quan phục đời Hán. Nhưng đến cuối Đông Hán, quý tộc và quan lại bắt đầu bình dân hóa, chuộng mặc y phục dân dã—tựa như tổng thống Mỹ mặc quần jeans vậy—đó là một kiểu “cool”, một vẻ tiêu sái. Nếu là võ tướng, trên đầu quấn khăn lụa xanh, tay phe phẩy quạt lông, ấy là phong thái “nho tướng”. Tất nhiên, lời văn nhân chưa hẳn đáng tin toàn bộ. Cái gọi là “đàm tiếu gian, tường lỗ hôi phi yên diệt” có phần phóng đại: chẳng đến mức tiêu sái như thế; chiến tranh suy cho cùng là tàn khốc và đầy rủi ro. Nhưng Tô Thức nói vậy là để dốc sức dựng lên hình tượng anh hùng của Chu Du.

Nghĩ thử xem: một người như Chu Du, hơn hai mươi tuổi đã làm Kiến Uy Trung lang tướng, lại cưới nàng Tiểu Kiều tuyệt sắc làm vợ—có thể nói chiến trường, quan trường, tình trường—trường nào cũng đắc ý. Sao có thể đi ghen tị người khác? Có chăng là người khác ghen với ông! Có lúc đọc từ của Tô Đông Pha “Dao tưởng Công Cẩn đương niên, Tiểu Kiều sơ giá liễu”, tôi còn thấy… hơi ghen tị nữa là.

Sự thực, Chu Du trong lịch sử rất rộng lượng. Trần Thọ trong Tam Quốc Chí nói ông “tính độ khoái khốc” (tấm lòng khoáng đạt). Người đương thời đánh giá ông cũng rất cao: Lưu Bị nói ông “khí lượng khá lớn”, Tưởng Can khen “nhã lượng cao chí”—nghĩa là vừa độ lượng, vừa phẩm hạnh cao. Vậy bảo Chu Du là kẻ bụng hẹp nhỏ nhen—ấy là oan uổng. Điều có thể khẳng định là: Trận Xích Bích do Chu Du làm tiền tuyến tổng chỉ huy của liên quân Tôn–Lưu; ông đã bộc lộ tài năng quân sự và chính trị, khiến cả Tào Tháo lẫn Lưu Bị đều không dám xem thường. Bởi vậy sau Xích Bích, cả Tào Tháo lẫn Lưu Bị đều đến chỗ Tôn Quyền nói xấu Chu Du. Kỳ thực, Tào và Lưu đều rất khâm phục ông, nhưng vì lợi ích đối lập, nhân tài của phe địch—dẫu là nhân tài—vẫn là địch của ta. May là Tôn Quyền đã không nghe theo.

Thời Tam Quốc anh hùng lớp lớp, chuyện Tam Quốc truyền tụng ngàn đời; “Tam Quốc Diễn Nghĩa” lại càng sinh động tươi rói. Nhưng chuyện kể và diễn nghĩa rốt cuộc không phải lịch sử. Chu Du trong lịch sử vì sao lại xa cách hình ảnh trong ấn tượng của ta? Vì sao Tào Tháo trên sân khấu lại là gian thần mặt trắng? Vì sao với đoạn lịch sử Tam Quốc ta vừa quen thuộc, lại vừa xa lạ? Rốt cuộc là do điều gì gây nên?

Vì lịch sử—nhất là lịch sử Tam Quốccó ba loại hình tượng.

Thứ nhất là hình tượng trên sử sách, chủ yếu là chính sử, cũng tức là hình tượng do các nhà sử học chủ trương—tôi gọi là “hình tượng lịch sử”. Cần nói rõ: hình tượng lịch sử không đồng nghĩa với chân tướng lịch sử. Bởi ngay chính sử cũng chưa chắc đáng tin. Bạn nào thích Tam Quốc có thể đọc cuốn mỏng “Tam Quốc sử thoại” của đại sư sử học Lữ Tư Miễn: ông nhiều lần chỉ ra rằng các ghi chép trong Tam Quốc Chí, Hậu Hán Thưchưa chắc đáng tin. Vì vậy, ta chỉ có thể định vị nó là hình tượng được ghi trong sử sáchđược nhà sử học chủ trương—gọi là hình tượng lịch sử.

Loại thứ hai là hình tượng trong tác phẩm văn học nghệ thuật—như Tam Quốc Diễn Nghĩa, như các tuồng tích Tam Quốc. Hình tượng nhân vật lịch sử ở trong đó tôi gọi là “hình tượng văn học”.

Loại thứ ba là truyền thuyết dân gian, tín ngưỡng dân gian, thậm chí hình tượng nhân vật trong lòng mỗi người—tôi gọi là “hình tượng dân gian”. Hình tượng dân gian bao gồm cả hình tượng trong tâm tưởng của mỗi chúng ta. Nói thực, ai yêu và quan tâm lịch sử đều sẽ tự dựng một hình tượng cho nhân vật lịch sử trong lòng mình. Một khi hình tượng ấy đã hình thành, định hình, người ta thường khó chấp nhận hình tượng khác. Nếu bạn nói một hình tượng khác với hình tượng trong lòng họ, họ sẽ bảo bạn sai. Bởi vậy khi xem phim/tuồng lịch sử, luôn có khán giả bình: “Ôi, Tào Tháo này không giống!” Xin hỏi, bạn từng gặp Tào Tháo thật chưa? Chưa từng. Thế cớ sao dám nói không giống, dám bảo người ta sai? Vì trong lòng họ đã có một hình tượng. Tất cả những dạng như vậy, tôi gom lại gọi là hình tượng dân gian.

Hễ là lịch sử, đều có khả năng tồn tại ba hình tượng như vậy. Với Tam Quốc, vấn đề này càng nổi bật. Vì sao? Vì lịch sử Tam Quốc rất ngắn: nếu tính từ khi Hán Linh Đế băng (cuối Đông Hán) đến khi Tây Tấn thống nhất cũng chỉ chừng 90 năm. Trong đó, triều Ngụy—được coi là chính thống theo phép kỷ niên—thì thời gian rất ngắn. Bởi thế, sau khi Ngụy diệt vong đến đời Tấn, đối với sự kiệnnhân vật Tam Quốc, các sách sử đã ghi chép bất nhất, nảy sinh phân kỳ. Rồi theo dòng lịch sử đẩy tới, vì nhiều nguyên nhân, các phân kỳ ấy ngày càng kết tinh thành hình tượng văn họchình tượng dân gian.

* Có vẻ như, hễ là nhân vật lịch sử quan trọng, ắt sẽ có ba hình tượng; theo thời gian, hình tượng lịch sử dễ bị phai nhạt, còn hình tượng văn họcdân gian thì lại được nhận biết rộng rãi. Thí dụ Gia Cát Lượng: nhắc đến ông, người ta lập tức nhớ “không thành kế”; mà nói “không thành kế” là liền phô bày thiên phú quân sự của ông. Thế thì “không thành kế” thực sự có xảy ra trong lịch sử không? Ông Dịch Trung Thiên đánh giá hình tượng văn học của Gia Cát Lượng trong Tam Quốc Diễn Nghĩa ra sao?

Hình tượng Gia Cát Lượngtác phẩm văn học nghệ thuật dày công điêu khắc. Mà sự điêu khắc ấy không phải nước không nguồn, cây không gốc—nó có lai lịch. Sau khi Ngụy mất, sự kính ngưỡng và tôn sùng Gia Cát Lượng đã khởi lên—dĩ nhiên là có nguyên do, có lý lẽ; ta sẽ nói sau. Đời Tấn có người tên Quách Xung—có lẽ là “fan cứng” của Gia Cát Lượng—cho rằng thiên hạ tôn sùng ông chưa đủ, bèn viết bài “Liệt kê năm việc của Lượng bị che khuất, đời chẳng hay” (《条亮五事隐没不闻于世者》)—tức là: tôi nay công bố năm chuyện về Gia Cát Lượng mà thiên hạ không biết. Về sau Bùi Tùng Chi khi chú Tam Quốc Chí đã dẫn cả năm việc này ra, rồi lần lượt bác bỏ—cho rằng không tồn tại. Trong đó, việc thứ ba chính là “không thành kế”. Bởi vậy “không thành kế” không phải do La Quán Trung bịa ra; nó có nguồn—chính là bài của Quách Xung. Quách Xung nói: lúc Tư Mã Ý kéo quân đánh Dương Bình, Gia Cát khi ấy trong tay vô binh, bèn dùng không thành kế, khiến Tư Mã Ý rút quân—đại để là thế. Bùi Tùng Chi bác bỏ dựa trên khảo chứng: khi ấy Tư Mã Ý giữ chức Kinh Châu đô đốc, đóng ở Uyển Thành, căn bản không có mặt tại chiến trường Dương Bình; người chưa hề đến, chuyện ấy sao xảy ra? Tất nhiên không thể. Nhưng câu chuyện thì quá hấp dẫn, nên văn học cứ nói mãi, sân khấu cứ diễn hoài.

Ta thử xem “không thành kế” trong văn nghệ là như thế nào. Chuyện rằng Mã Tắc để mất Nhai Đình, Gia Cát vô binh vô tốt, Tư Mã Ý đại quân áp境; Gia Cát cấp trung sinh trí, lệnh mở toang bốn cửa thành, sai mấy lão binh quét dọn trước cổng; còn mình thì đưa hai tiểu đồng, ôm đàn lên lầu thành ngồi gảy đàn như đi hát karaoke. Ông hát thế này: “Ta đang ở lầu thành ngắm non nước, chợt nghe ngoài thành rối như ong; cờ xí giăng giăng che bầu trời, thì ra là quân Tư Mã kéo đến.” Rồi ông lại hát: Mã Tắc thì bất tài, tướng soái chúng ngươi lại chẳng hòa mục, Nhai Đình đã mất; ngươi tham được chừng ấy, lòng tham vô đáy lại đến đánh ta. Đã đánh thì đánh đi, ta chuẩn bị sẵn cả rồi: đường xá ta đã quét sạch—đợi ngươi vào đóng quân; ta đã giết dê, nấu rượu, sẵn sàng khao thưởng ba quân của ngươi. Đã đến rồi thì vào thành đi, còn do dự làm gì? Nói cho rõ: trong phòng ta chỉ có ta với hai chú tiểu đồng, không phục binh, không có quân; đừng lập lờ nước đôi nữa. Cuối cùng, Gia Cát hát: “Lại đây, lại đây, mời lên thành nghe ta gảy đàn!

Tư Mã Ý lúc này đã tới chân thành: “Ơ, anh bạn này ý gì? Mời ta lên lầu cùng karaoke? Lỡ ta lên rồi, anh OK ta luôn thì sao!**” Thế là không mắc bẫy, rút quân. Việc này, thứ nhất, như đã nói, Bùi Tùng Chi giải thích : không phải sự thật. Thứ hai, xét logic cũng không ổn. Tư Mã Ý không dám công kích chẳng qua sợ trong thành có phục binh. Nhưng thành bé thế, thời hàn binh khí, phục được bao nhiêu? Cũng không thểhỏa tiễn tầm xa, càng khôngvũ khí bí mật. Sai một trung đội trinh sát vào do thám có được không? Lại nữa, đã tới dưới lầu thành, nhìn thấy ông ta thần sắc ung dung gảy đàn, còn mời gọilên đây nghe ta gảy” cơ mà; nghe rõ mồn một, vậy khoảng cách không xa. Cử một thần xạ thủ bắn một mũi tên hạ ông ta không được à? Thứ ba, theo Quách Xung hoặc La Quán Trung, chênh lệch binh lực cực lớn: người nói Tư Mã Ý có hai mươi vạn, người nói mười mấy vạn. Vây chặt cái thành ấy lại ba ngày, vây mà không đánh có được không? Cớ gì quay đầu rút ngay? Bùi Tùng Chi khi chú giải cũng đã nói rất rõ: vây là được, sao lại rút? Vậy nên không thể tin. Còn những chuyện khác như hỏa thiêu Bác Vọng, hỏa thiêu Tân Dã, mượn thuyền cỏ lấy tên, mượn gió đôngđều không có căn cứ sử sách.

Thực ra, Gia Cát Lượng là một nhà chính trị kiệt xuất, thậm chí có thể nói vĩ đại. Sở trường của ông chủ yếuchính trị, đóng góp cũng chủ yếu là: (1) định ra chiến lược cho tập đoàn Lưu Bị—tức “Long Trung đối” nổi tiếng; (2) thúc đẩy liên minh Lưu Bị – Tôn Quyền; (3) quan trọng nhất: sau khi Lưu Bị qua đời, ông trị lý nước Thục—tài trị quốc cực kỳ xuất chúng. So ra, tài quân sự của ông không bằng tài trị quốc. Trần Thọ có đánh giá: “Trị nhung vi trường, kỳ mưu vi đoản; lý dân chi cán, ưu ư tướng lược.”—tức sở trường là quản quân, kém ở kỳ mưu; tài trị dân trội hơn mưu lược cầm quân. Tôi cho rằng nhận xét của Trần Thọ khách quan. Nhưng trong hình tượng văn họcdân gian, ông lại thành thiên tài quân sự, thần cơ diệu toán; còn những đại tướng của tập đoàn Lưu BịQuan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung, Mã Siêu—bỗng lù khù ngơ ngác: quân sư hạ lệnh một tiếng là dắt quân mà đi; đi đâu không biết, tới nơi mở túi: “Quân sư dặn thế này—‘cẩm nang diệu kế’ đây này.” Thế hóa ra xem chiến tranh như trò trẻ. Còn “mượn gió đông”—theo mô tả trong Tam Quốc Diễn Nghĩa và biểu diễn trên sân khấu—khoác đạo bào, chân đất, tóc xõa, tay kiếm—ấy không phải hình tượng của ông. Cho nên Lỗ Tấn mới nói Tam Quốc Diễn Nghĩatả Gia Cát nhiều trí mà gần yêu” (yêu ở đây không phải yêu tinh yêu quái): yêu nhân—tức kẻ làm trò thần thần quỷ quỷ, thầy cúng. Tất nhiên, theo Tam Quốc Diễn Nghĩa, cái “yêu nhân” ấy cũng là giả vờ. Nhưng không cần thiết. Khi Tôn–Lưu cùng đối kháng Tào Tháo, đáng lẽ vẫn đồng tâm hiệp lực; về sau vì tranh Kinh Châu mới sinh chiến, đó là chuyện sau này. Vậy nên vẽ ông thành yêu nhân như thế là không thích đáng. Sự thật, Gia Cát Lượng là một soái ca: sử sách chép ông “thân trường bát xích, dung mạo thậm vĩ”—tám thước Hán tương đương khoảng 1m84 ngày nay. Lúc xuất sơn, ông mới 26 tuổi. Tuổi ấy, tầm vóc ấy, thử hình dung một phong tư thế nào. Vậy nên hình tượng văn họchình tượng lịch sửkhoảng cách.

Tam Quốc Diễn Nghĩa lấy chất liệu từ chính sử, nhưng nhiều tình tiếthành trạng nhân vật lại được bồi đắp, phát triển trên nền chuyện Tam Quốc; như không thành kế, mượn gió đông v.v., rốt cuộc chỉ là tưởng tượng nghệ thuật. Vậy nên hình tượng lịch sử không đồng nhất với hình tượng văn họcdân gian. Chẳng hạn Quan Vũ đã trở thành đại diện tín ngưỡng dân gian. Dân gian vì sao sùng bái Quan Vũ? Ông Dịch Trung Thiên nhìn nhận hình tượng dân gian của Quan Vũ thế nào?

Hình tượng dân gian thường cũng cách biệt với hình tượng văn học. Ví như Quan Vũ: hình tượng văn học đã khác xa lịch sử, còn hình tượng dân gian thì lại càng kỳ quặc. Ta biết dân gian có những tín ngưỡng: đối tượng thường lấy từ Thủy HửTam Quốc Diễn Nghĩa; chứ Hồng Lâu Mộng thì không. Thí dụ, dân gian tôn Lưu Bị làm tổ sư nghề đan lát, Trương Phi làm tổ sư nghề đồ tể, Tống Giang làm tổ sư bọn cướp, Thời Thiên làm tổ sư bọn trộm; chứ đâu nghe ai tôn Giả Bảo Ngọc, Vương Hy Phượng làm tổ sư gì. Đủ thấy ảnh hưởng dân gian của Thủy HửTam Quốc vượt xa Hồng Lâu. Vậy dân gian tôn Quan Vũtổ sư của ai?—thợ cạo! Chuyện nghe lạ. Quan Vũ sinh thời đâu có cạo đầu: đời Hán để tóc dài, không cạo; cạo đầu là chuyện đời Thanh—phía trước cạo nửa, phía sau tết bím. Đời Thanh mới có thợ cạo. Vậy sao Quan Vũ lại thành tổ sư thợ cạo? Nghĩ tới lui: chắc tại cả hai đều cầm dao—nhưng đao của Quan Côngđao chém đầu, không phải dao cạo. Sau nhớ tới một cửa tiệm cạo tóc đời Thanh có câu đối: “Vấn thiên hạ đầu lâu kỷ hứa, khán lão phu thủ đoạn nhược hà!”—“Hỏi thiên hạ có mấy cái đầu, xem lão phu ra tay thế nào!” Khẩu khí ấy nghe mới ra chất Quan Vũ.

Lại có chuyện lạ nữa: tôn Quan Vũ làm Tài thần. Nay nhiều doanh nhân, tiểu thương bày thờ Quan Công. Ông vốn võ tướng, bảo là chiến thần thì còn được, sao lại Tài thần? Tất nhiên có nguyên do, về sau sẽ bàn. Nhưng tôi nghĩ: nếu đã Tài thần được, thì cũng Ái thần được—bày ở trung tâm mai mối ấy chứ! Vì theo Tam Quốc Chí, chú của Bùi Tùng Chi dẫn Thục Ký, Quan Vũ từng phải lòng một người đàn bà—chuyện này Hoa Dương Quốc Chí cũng chép. Người ấy là vợ thuộc hạ của Lã Bố. Khi Tào Tháo đánh Lã Bố, Quan Vũ bàn với Tào Tháo: nếu trừ được Lã Bố, người đàn bà ấy xin gả cho ta. Tào nói: được. Không biết vì sao—có lẽ Quan Vũ không yên tâm về Tào, sợ quên, nên cứ nhắc mãi. Trước trận lại nhắc. Tào nghĩ bụng: người đàn bà nào mà khiến Quan Vũ động lòng đến thế? Để ta xem. Xem xong thì… xong: Tào Tháo phải lòng trước, nước gần vời trăng, đoạt tay trên. Làm Quan Vũ tức nghẹn. Việc này Tào quả là không đẹp—sao lại làm thế?

* Qua phân tích trên, có thể thấy mỗi người đều có một Tam Quốc của riêng mình, ai cũng có góc nhìn riêng để bình nhân vật. Tam Quốc Diễn Nghĩa khắc họa anh hùng hết sức đậm nét; truyền thuyết dân gian lại càng tương truyền dũng mãnh. Vậy đứng trước ba hình tượng—lịch sử, văn học, dân gian—trong quá trình phẩm Tam Quốc về sau, ta nên làm thế nào?

Thứ nhất, ta vẫn phải làm rõ hình tượng lịch sử. Với Tam Quốc, nên đọc cuốn này: Tam Quốc Chí của Trần Thọ. Ông là người Nam Sung (Tứ Xuyên), sau khi Tây Tấn thống nhất Trung Quốc năm năm, ông hoàn thành tác phẩm sử học bất hủ này. Trần Thọ học phong nghiêm cẩn: dù thu thập rất nhiều tư liệu, ông đều gạn lọc; cái gì không tin cậy, còn ngờ, khó dựa, nói chung không đưa vào Tam Quốc Chí. Bởi vậy nảy sinh một vấn đề: Tam Quốc Chí rất giản lược. Hơn 130 năm sau, người Văn Hỷ (Sơn Tây)Bùi Tùng Chi làm chú cho Tam Quốc Chí. Mà chú của Bùi khác hẳn kiểu thường: không chỉ giải thích từ, định vị địa danh, niên đại…; ông gom những tư liệu mình thấy được—bao gồm cả thứ Trần Thọ đã thấy mà không dùng, lẫn thứ Trần Thọ chưa thấychú vào sau nguyên văn của Trần. Nhờ đó tư liệu Tam Quốc được phong phú vượt bậc. Hơn nữa, khi dẫn các tư liệu này, Bùi cũng gạn lọc: cái ông thấy đáng tin, ông chú; cái khó tin, ông cũng chú, nhưng bộc bạch quan điểm—“điều này e khó tin, lý do là…”. Gặp nhiều nguồn mâu thuẫn, không kết luận được, ông “tồn nhi bất luận”—để song song cho độc giả tự suy xét. Ấy là phương pháp trị học rất đáng học.

Thứ hai, ta phải xem hình tượng văn học. Tuy không đồng nhất với lịch sử, nhưng hình tượng văn học cũng có giá trị. Chẳng hạn Tam Quốc Diễn Nghĩa được hậu thế coi là binh thư, là giáo khoa về quân sựchính trị. Trước khi Người Mãn nhập quan, họ đã dịch Tam Quốc sang Mãn văn, giao cho thân quý đại thần đọc để học cách dùng Tam Quốcđối phó Minh triều. Còn có giai thoại: một tướng Mãn quen một người Hán, kết bạn thân, bèn bảo: “Ngươi tuy là người Hán, nhưng ta thấy cũng được đấy. Lại đây, vào phòng ta, ta cho xem tài liệu nội bộ, cơ mật.” Mở ra—Tam Quốc Diễn Nghĩa. Quả vậy, về sau rất nhiều người bắt chước. Tiền Chung Thư khi bàn về không thành kế gọi đó là điển phạm của “bất khi – thụ khi”—tức dùng việc không lừa để bán cái lừa: ta nói thẳng “trong này chỉ có ta với hai tiểu đồng, không phục binh, không có quân; mời vào!”, ta càng nói thực, đối phương càng không tin—ấy là “bất khi – thụ khi”. Mao Tôn Cương phụ tử khi bình Tam Quốc cũng nói: “Chỉ người thận trọng mới dám làm việc táo bạo; cũng chỉ người thận trọng mới không dám làm việc táo bạo.” Vì người ta ghi nhớ sự thận trọng thường ngày của anh, nên khi anh bỗng táo bạo một phen, ai cũng không ngờ, thế là thắng bằng tâm lý chiến. Điều này có lý, cũng gợi mở cho ta. Nhưng trong bài Tiền còn dẫn lời Ngụy Hỉ: không thành kế cũng phải xem tình huống, không thể dùng bừa. Gia Cát Lượng chẳng qua gặp phải một trí thứcTư Mã Ý—mà đặc điểm của trí thức là hay phức tạp hóa vấn đề; đọc sách nhiều chưa chắc tốt, cứ làm phức tạp cái đơn giản. Hắn cứ ngẫm nghĩ mãi: “Sao lại thế nhỉ?” Chứ gặp bọn thảo khấu, đầu mục sơn tặc, đạo tặc giang hồ, chúng có nghĩ nhiều vậy không?—“Mặc kệ, xông vào rồi tính!” Lúc ấy thì Gia Cát bị bắt sống. Bởi vậy, dù là hình tượng văn học hay dân gian, ta ngẫm nghĩ, nghiên cứu cũng rất có ý nghĩa.

Vậy ngẫmnghiên cứu ba hình tượng ấy thế nào? Tiền Mục nói: đọc sử có hai thứ “ý kiến”: một là đứng trên lập trường người xưa—gọi là “lịch sử ý kiến”; hai là đứng trên lập trường người nay—gọi là “thời đại ý kiến”. Còn tôi cho rằng có thêm một cách: đứng trên lập trường cá nhân—gọi là “cá nhân ý kiến”. Cho nên, về lịch sử, có ba hình tượng: lịch sử, văn học, dân gian. Cũng sẽ có ba ý kiến: lịch sử, thời đại, cá nhân. Ba ý kiến – ba hình tượng, kết hợp lại, ấy chính là “phẩm đọc Tam Quốc” của chúng ta. Chúng ta phẩm Tam Quốc, là muốn đưa khán giả trở lại một thời anh hùng bốn bể, ba đào cuộn sóng.

Điều đó lại khiến ta nhớ đến từ của Tô Đông Pha: “Đại giang đông khứ, lãng đào tận, thiên cổ phong lưu nhân vật.” Lại nhớ: “Giang sơn như họa, nhất thời đa thiểu hào kiệt.” Và nhớ từ của Trương Thăng đời Tống: “Đa thiểu Lục triều hưng phế sự, tận nhập ngư tiều nhàn thoại.” Thực ra, “tận nhập ngư tiều nhàn thoại” đâu chỉ là hưng phế Lục triềumọi lịch sử đều có thể thu vào chuyện cười câu nói: “Cổ kim đa thiểu sự, đô phó tiếu đàm trung.” Trong các số sắp tới, tôi sẽ cùng các bạn cười đàm tam phân, phẩm độc Tam Quốc. Mà bắt đầu từ đâu? Tôi nghĩ, hãy bắt đầu từ nhân vật mà hình tượng lịch sử–văn học–dân gian rối rắm nhất, dị biệt nhiều nhất, tranh luận lớn nhất—hãy để ông dẫn ta bước vào một lịch sử vốn đã cực kỳ phức tạp mà lại ba đào sóng cả! Mời xem tập sau—Chân giả Tào Tháo.

5/5 - (1 vote)

DONATE

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM