Văn Minh Hy-La

Hài kịch Hy Lạp cổ đại

Hài kịch Hy Lạp tiếp tục phổ biến qua thời Hy Lạp hóa và La Mã. Nhiều vở kinh điển được tái diễn nhiều lần.

Nguồn: World History
22 views
hai kich hy lap co dai

Hài kịch Hy Lạp cổ đại là một hình thức sân khấu phổ biến và có ảnh hưởng, được trình diễn khắp Hy Lạp từ thế kỷ 6 TCN. Những nhà soạn kịch nổi tiếng nhất thuộc thể loại này là Aristophanes và Menander, cùng các tác giả đương thời, thường chế giễu chính trị gia, triết gia và nghệ sĩ. Bên cạnh yếu tố gây cười, các vở kịch còn gián tiếp cung cấp cái nhìn vô giá về xã hội Hy Lạp, cho ta biết chi tiết về cách vận hành chính quyền, thể chế chính trị, hệ thống pháp luật, nghi lễ tôn giáo, giáo dục và chiến tranh trong thế giới Hy Lạp. Đặc biệt, chúng tiết lộ phần nào về bản sắc khán giả, cũng như điều gì khiến người Hy Lạp thấy buồn cười. Cuối cùng, hài kịch cùng với bi kịch Hy Lạp đã trở thành nền tảng cho toàn bộ nghệ thuật sân khấu hiện đại.

Chiếc bình chuông (bell-krater) vẽ hình đỏ từ Paestum, 360–340 TCN.
Chiếc bình chuông (bell-krater) vẽ hình đỏ từ Paestum, 360–340 TCN. Trong một cảnh hài kịch Hy Lạp, thần Dionysos được khắc họa cùng một diễn viên hài đang cân một chiếc giỏ trên đầu. Diễn viên mặc trang phục đặc trưng – bụng độn, dương vật giả và mặt nạ có râu.

Nguồn gốc của hài kịch

Nguồn gốc chính xác của hài kịch Hy Lạp đã mất dấu trong màn sương tiền sử, nhưng việc con người hóa trang và bắt chước người khác hẳn đã có từ lâu trước khi có ghi chép. Dấu vết đầu tiên ở Hy Lạp đến từ đồ gốm thế kỷ 6 TCN, trên đó vẽ diễn viên đóng giả ngựa, quỷ rừng (satyr) và vũ công trong những bộ trang phục phóng đại. Nguồn gốc thứ hai là các bài thơ của Archilochus (thế kỷ 7 TCN) và Hipponax (thế kỷ 6 TCN) chứa những câu đùa tục và khêu gợi. Một nguồn khác, được Aristotle nhắc đến, là những bài ca phồn thực hát trong lễ hội Dionysos.

Phù điêu cẩm thạch khắc họa các mặt nạ sân khấu được diễn viên sử dụng trong bi kịch và hài kịch Hy Lạp – La Mã. Thế kỷ 2 SCN (Bảo tàng Vatican, Roma).

Cấu trúc một vở hài

Dù có sáng tạo, nhưng một vở hài vẫn theo cấu trúc quen thuộc. Phần đầu là parados khi dàn đồng ca, có thể tới 24 người, xuất hiện và trình diễn ca múa. Trang phục kỳ quái có thể là ong khổng lồ với ngòi nhọn, kỵ sĩ cưỡi trên lưng người giả ngựa, hay thậm chí các dụng cụ nhà bếp. Nhiều vở kịch được đặt tên theo đồng ca, như Những con ong bắp cày của Aristophanes.

Phần thứ hai là agon, thường là màn tranh luận dí dỏm giữa các diễn viên chính, với cốt truyện kỳ ảo, cảnh thay đổi nhanh và có thể ứng biến (nhất là khi chọc vào khán giả có mặt). Phần ba là parabasis, khi dàn đồng ca nói trực tiếp với khán giả, thậm chí thay lời tác giả. Kết thúc là exodos, màn ca múa hoành tráng của đồng ca.

Nhà hát Delphi và ngôi đền Apollo phía dưới (thế kỷ 4 TCN). Sức chứa của nhà hát khoảng 5.000 khán giả.
Nhà hát Delphi và ngôi đền Apollo phía dưới (thế kỷ 4 TCN). Sức chứa của nhà hát khoảng 5.000 khán giả.

Mặt nạ sân khấu

Tất cả diễn viên đều là nam giới chuyên nghiệp – vừa diễn, hát, vừa múa – được hỗ trợ bởi trang phục kỳ công và mặt nạ tô vẽ. Ba diễn viên chính đảm nhiệm mọi vai thoại: một nhân vật chính (protagonist) và hai phụ. Đôi khi có thêm diễn viên thứ tư, nhưng không quan trọng với cốt truyện. Quy định này nhằm công bằng trong thi đấu và giảm chi phí cho nhà nước, vốn tài trợ diễn viên chuyên nghiệp. Dàn đồng ca, nhạc công và tập dượt do một công dân giàu có (khorēgos) chi trả, đây là vinh dự lớn.

Vì số diễn viên hạn chế, mỗi người phải đóng nhiều vai, đổi trang phục nhanh và dùng mặt nạ đặc trưng (nô lệ, thần Heracles, Hermes…). Một số mặt nạ còn biếm họa nhân vật đương thời. Do mặt nạ che hết biểu cảm, giọng nói và cử chỉ trở thành yếu tố cực kỳ quan trọng. Trang phục cũng nổi bật: thường có nhồi bông, mặc áo ngắn, quần bó, để lộ bộ phận sinh dục giả phóng đại – liên quan đến nghi lễ Dionysos – chi tiết này thấy rõ trong nhiều hình vẽ trên gốm.

Kịch diễn tại nhà hát ngoài trời (theatron), như nhà hát Dionysos ở Athens, dường như mở cho toàn bộ nam giới (sự hiện diện của phụ nữ còn tranh cãi). Sự phổ biến của nhà hát ở nhiều thành phố và phát hiện mặt nạ đất nung chứng tỏ hài kịch (và bi kịch) được trình diễn rộng rãi. Trong nhà hát Hy Lạp, ghế xếp hình bán nguyệt bao quanh khu orchestra – nơi đồng ca biểu diễn. Diễn viên chính diễn trên sân khấu cao, có phông nền là skēne – tòa nhà hai tầng, vừa làm hậu trường thay đồ vừa làm lối vào. Đồng ca đôi khi bước lên sân khấu, diễn viên cũng có thể vào orchestra qua lối công cộng (parodoi).

Mặt nạ bằng đá dùng trong kịch hài Hy Lạp. Những nét mặt méo mó là đặc trưng của mặt nạ sân khấu, và chiếc này khắc họa một nô lệ. Đá cẩm thạch Pentelic (thế kỷ 2 TCN). Tìm thấy tại Athens, gần Cổng Dipylon (Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia Athens).

Hài kịch trong thi đấu

Thế kỷ 5 TCN, trong các lễ hội tôn giáo lớn như City Dionysia và Lenaea, hài kịch được thi trong ba ngày. Ban đầu có năm, sau giảm còn ba vở dự thi, diễn sau bi kịch và kịch satyr mỗi ngày. Ban giám khảo gồm mười người bốc thăm, bỏ sỏi vào bình, rồi rút ngẫu nhiên năm bình để chọn người thắng.

Hài kịch Cổ (Old Comedy)

“Ước chi một vị thần nào đó,
Đột ngột biến ta thành làn khói!
Như lời chính khách thoát lên trời,
Bốc hơi ngút ngát, tan vào mây.”
(Những con ong bắp cày, Aristophanes)

Hài kịch Cổ chỉ những vở thế kỷ 5 TCN. Vở nguyên vẹn xưa nhất còn lại là Acharnians của Aristophanes, công diễn 425 TCN.

Cốt truyện thường phá vỡ thực tế về thời gian, không gian, nhảy qua khoảng cách khổng lồ, đổi cảnh chớp nhoáng. Yếu tố kỳ ảo – quái vật, cải trang phi lý – xen lẫn lời thoại nhắm vào khán giả, tạo nên dòng chảy trào phúng, nhại lại, chơi chữ, phóng đại, ngôn ngữ sống động và thô tục. Nhờ là hình thức giải trí đại chúng, nó lưu lại ngôn ngữ bình dân không có trong văn bản nghiêm túc. Hầu như nhân vật công chúng nào cũng bị đem ra giễu cợt, kể cả thần thoại và tôn giáo, ngoại trừ những phần thiêng liêng như các Bí tích (Mysteries) và các thần tối cao như Zeus, Athena.

Hài kịch Mới (New Comedy)

Cuối thế kỷ 4 TCN, một phong cách mới xuất hiện – Hài kịch Mới. Có lẽ sự chuyển tiếp diễn ra dần dần, qua giai đoạn trung gian gọi là Hài kịch Trung (Middle Comedy). Hai vở cuối của Aristophanes đã mang phong cách này. Hài kịch Mới chú trọng vào cốt truyện, dùng nhân vật quen thuộc: đầu bếp, lính, kẻ môi giới, nô lệ láu cá. Vai trò đồng ca giảm, chỉ còn xen nhạc giữa các hồi. Cấu trúc năm hồi ổn định hơn. Nội dung cũng thay đổi: tập trung vào đời sống thường nhật, mối quan hệ gia đình, giai cấp, người ngoại quốc. Công kích cá nhân dường như ít hơn – có thể vì luật cấm.

Các tác giả hài kịch

Aristophanes là tượng đài lớn nhất. Ông sống khoảng 460–380 TCN, quê Athens. Mười một vở của ông còn nguyên vẹn, là những mẫu duy nhất của Hài kịch Cổ. Aristotle cho rằng thô tục, nhưng chúng thể hiện trí tuệ sắc bén, châm biếm xã hội, chính trị. Ba nhân vật thường xuyên bị ông nhắm tới: chính trị gia Cleon, triết gia Socrates, bi kịch gia Euripides.

Các tác giả quan trọng khác của Hài kịch Cổ gồm Cratinus (với Cheimazomenae 426 TCN, Satyrs 424 TCN, Pytine 423 TCN) và Eupolis (Numeniae 425 TCN, Maricas 421 TCN, Flatterers 421 TCN, Autolycus 420 TCN).

Với Hài kịch Mới, ta biết nhiều hơn. Một số tác giả sáng tác hàng trăm vở. Quan trọng nhất có Philemon (368/60–267/3 TCN) với 97 vở, Diphilus khoảng 100 vở, Philippides. Nhưng nổi bật nhất là Menander (342–291 TCN). Dù Philemon thắng giải nhiều hơn, Menander mới được coi là bậc thầy Hài kịch Mới. Ông viết khoảng 100 vở, nhiều vở còn tới thế kỷ 7 SCN nhưng đã thất truyền. Vở Dyskolos (công diễn 316 TCN) là vở nguyên vẹn nhất còn lại, ngoài ra còn nhiều đoạn lớn của sáu vở khác.

Menander nổi tiếng với tình huống sáng tạo, đối thoại nhanh, kịch tính hồi hộp và tập trung vào đời sống gia đình. Ông thường có nhân vật tình cảm chính – chàng trai trẻ độc thân, khác với nhân vật trung niên đã lập gia đình trong Aristophanes. Hài kịch của Menander còn gợi ý giá trị khoan dung, thấu hiểu trong quan hệ xã hội.

Di sản của hài kịch

Hài kịch Hy Lạp tiếp tục phổ biến qua thời Hy Lạp hóa và La Mã. Nhiều vở kinh điển được tái diễn nhiều lần. Các tác giả La Mã như Plautus, Terence kế thừa và phát triển, rồi thể loại đa dạng hóa thành kịch câm, togata và nhiều hình thức sân khấu hài khác.

Rate this post

DONATE

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM