Long Reads

Lịch sử và văn minh Ai Cập cổ đại

Dưới đây là bản dịch nguyên văn từ sách Story of Civilization của Will Durant, Tập 1: Our Orient Heritage.

Nguồn: Books
27 views

I. MÓN QUÀ CỦA SÔNG NIL

1. Ở vùng Châu thổ

Alexandria — Sông Nile — Kim Tự Tháp — Nhân Sư

Đây là một hải cảng hoàn hảo. Bên ngoài con đê chắn sóng dài, những ngọn sóng chồng chất lên nhau một cách dữ dội; bên trong, biển lại phẳng lặng như một tấm gương bạc. Nơi kia, trên hòn đảo nhỏ Pharos, khi Ai Cập đã rất già nua, Sostratus đã xây ngọn hải đăng vĩ đại bằng cẩm thạch trắng, cao năm trăm bộ, làm ngọn đèn dẫn đường cho bao thủy thủ xưa của Địa Trung Hải, và là một trong bảy kỳ quan của thế giới. Thời gian và làn nước gặm nhấm đã cuốn trôi nó đi, nhưng một ngọn hải đăng mới đã thay thế, đưa tàu thuyền xuyên qua ghềnh đá tiến vào bến cảng Alexandria. Tại đây, chàng thanh niên chính khách kỳ diệu Alexander đã dựng nên một đô thị tinh tế, đa ngôn ngữ, để thừa hưởng nền văn hóa của Ai Cập, Palestine và Hy Lạp. Chính trong hải cảng này, Caesar đã nhận, với vẻ không vui, chiếc đầu bị chặt rời của Pompey.

Con tàu hỏa lướt qua thành phố, hé lộ những con ngõ đất chưa lát, những con phố hầm hập nóng, những gợn sóng nhiệt rung rinh trong không khí, những người lao động trần trụi nửa thân, những người phụ nữ mặc đồ đen gắng gượng gánh vác nặng nề, những tín đồ Hồi giáo áo trắng, khăn xếp, mang vẻ uy nghi như bậc vương giả; và ở phía xa là những quảng trường rộng rãi, những cung điện lấp lánh, có lẽ cũng đẹp chẳng kém những tòa nhà mà triều Ptolemy đã dựng khi Alexandria là nơi gặp gỡ của cả thế giới. Rồi bất chợt cảnh vật mở ra, thành phố lùi dần vào chân trời, nhường chỗ cho vùng châu thổ phì nhiêu — tam giác xanh trên bản đồ, tựa như tán lá của một cây chà là vươn cao, được nâng đỡ bởi thân mảnh là dòng Nile.

Hẳn thuở xưa, châu thổ này vốn là một vịnh biển; dòng sông mênh mông kiên nhẫn lấp đầy nó, chậm đến mức mắt người chẳng nhận ra, bằng phù sa cuốn về từ ngàn dặm xa. Và giờ đây, từ mảnh đất bùn nhỏ bé nằm giữa những nhánh sông ấy, sáu triệu nông dân đã gieo trồng đủ bông để mỗi năm xuất khẩu trị giá hàng trăm triệu đô la. Kìa, dưới ánh mặt trời chói chang, bình thản và lấp lánh, viền quanh bởi những hàng cọ mảnh khảnh và bờ cỏ xanh, hiện ra con sông nổi tiếng nhất trần gian. Ta chưa thể thấy sa mạc nằm ngay bên kia, cũng chưa thấy những thung lũng khô cạn — những lòng sông trống rỗng — nơi xưa kia các nhánh màu mỡ từng chảy qua; ta cũng chưa thể hình dung rằng xứ Ai Cập này nhỏ bé và mong manh đến nhường nào, nhờ vả tất cả vào con sông, trong khi đôi bên luôn bị đe dọa bởi biển cát dịch chuyển và thù địch.

Giờ con tàu đi xuyên qua đồng bằng phù sa. Nửa đất đai ngập nước, chằng chịt kênh mương dẫn thủy. Trên ruộng và trong mương, những người fellah da đen cặm cụi lao động, chỉ che thân bằng một mảnh vải nơi hạ thể. Sông vừa trải qua một trong những trận lũ hằng năm, khởi đầu từ hạ chí và kéo dài trăm ngày; nhờ trận tràn lũ ấy mà sa mạc trở nên phì nhiêu, và Ai Cập trổ hoa, theo cách nói của Herodotus, thành “món quà của sông Nile.” Ta dễ hiểu vì sao văn minh đã tìm được một trong những mái nhà sớm nhất ở nơi đây; không đâu khác có một dòng sông hào phóng đến thế trong việc tưới tiêu, và cũng dễ kiểm soát mực nước đến thế; chỉ có Lưỡng Hà mới có thể sánh được. Suốt ngàn đời, dân quê đã dõi theo mực nước sông với niềm lo âu và hy vọng; đến tận nay, những người rao tin công cộng vẫn loan báo mỗi sáng tại Cairo mực nước lên đến đâu. Như thế, quá khứ, với sự lặng lẽ đều đặn của dòng sông này, chảy mãi vào tương lai, chỉ khẽ chạm vào hiện tại trên đường đi. Chỉ có sử gia mới đặt ra ranh giới; thời gian thì không.

Nhưng món quà nào cũng phải trả giá; và người nông dân, dù trân quý dòng nước dâng, biết rằng nếu không chế ngự, nó có thể phá hoại cũng như tưới tắm cho ruộng đồng. Thế nên từ thuở xa xưa trước cả lịch sử, họ đã đào nên những mương máng chằng chịt khắp đất đai; họ giữ lại nước dư trong kênh, và khi sông rút, họ dùng gầu múc gắn trên đòn bẩy dài mà đưa nước lên, vừa làm vừa hát những khúc ca mà sông Nile đã nghe suốt năm nghìn năm. Bởi những người nông dân ấy, nay cũng như xưa, u buồn, ít cười, ngay cả trong tiếng hát, có lẽ đã như thế suốt năm mươi thế kỷ. Dụng cụ tát nước này cổ xưa ngang tuổi Kim Tự Tháp; và cả triệu người fellah ấy, bất chấp cuộc chinh phục của người Ả Rập, vẫn còn nói thứ ngôn ngữ của những bia ký cổ đại.

Tại vùng châu thổ này, cách Alexandria năm mươi dặm về đông nam, là di chỉ Naucratis, từng một thời đầy rẫy những người Hy Lạp cần cù, mưu mẹo; đi thêm ba mươi dặm về đông là Saïs, nơi vào những thế kỷ trước khi người Ba Tư và Hy Lạp chinh phạt, nền văn minh bản địa Ai Cập đã có cuộc hồi sinh cuối cùng; rồi một trăm hai mươi chín dặm về đông nam Alexandria là Cairo. Một thành phố đẹp, nhưng không phải Ai Cập; quân chinh phục Hồi giáo lập nên nó vào năm 968 sau Công nguyên; rồi sau đó, tinh thần rực rỡ của nước Pháp đã lấn át bóng tối Ả Rập, dựng nên nơi đây một Paris giữa sa mạc, lạ lẫm và không thật. Phải đi ngang qua nó bằng xe hơi hay xe ngựa thong dong thì mới chạm tới Ai Cập xưa ở vùng Kim Tự Tháp.

Từ con đường dài dẫn tới đó, Kim Tự Tháp thoạt trông nhỏ bé; ta đã đi xa thế để rồi thấy ít ỏi vậy sao? Nhưng rồi chúng lớn dần, như thể đang nâng mình lên khỏi mặt đất; ngoặt một khúc quanh, rìa sa mạc bỗng hiện ra; và kìa, Kim Tự Tháp sừng sững trước mắt ta, trơ trọi trên cát, khổng lồ và âm trầm dưới bầu trời xanh. Chung quanh chân tháp là một đám đông hỗn tạp — những thương nhân bụng phệ cưỡi lừa lảo đảo, những quý bà còn nặng nề hơn ngồi xe gọn gàng, thanh niên phi ngựa, thiếu nữ gò mình trên lưng lạc đà, đôi gối óng ánh trong nắng; và ở khắp nơi, những người Ả Rập chèo kéo. Ta đứng nơi Caesar và Napoleon từng đứng, và nhớ rằng năm mươi thế kỷ đang nhìn xuống ta; nơi mà “cha đẻ sử học” Herodotus đã tới trước Caesar bốn trăm năm, nghe những câu chuyện từng làm Pericles kinh ngạc. Một góc nhìn mới về thời gian mở ra; hai thiên niên kỷ dường như rơi khỏi bức tranh, và Caesar, Herodotus cùng chúng ta bỗng hóa ra đồng thời, hiện đại, trước những ngôi mộ xưa vốn cổ kính với họ chẳng kém gì Hy Lạp cổ đại đối với chúng ta.

Ngay gần đó, Nhân Sư — nửa sư tử, nửa triết gia — gầm ghì cào cát, trừng mắt bất động nhìn khách qua đường chóng vánh và vùng đồng bằng vĩnh hằng. Đó là một tượng đài dữ dội, như thể được tạo ra để dọa bọn trác táng và bắt trẻ con đi ngủ sớm. Thân sư tử chuyển thành đầu người với quai hàm nhô và đôi mắt tàn nhẫn; nền văn minh dựng nên nó (khoảng 2990 TCN) hẳn chưa quên hết dã man. Có thời, cát đã vùi lấp nó, và Herodotus — người vốn thấy được nhiều điều chẳng tồn tại — lại chẳng thốt một lời nào về nó.

Thế nhưng, thử nghĩ xem người Ai Cập xưa giàu mạnh và tài giỏi nhường nào, ngay từ buổi sơ khai của lịch sử, để đưa được những khối đá khổng lồ từ sáu trăm dặm xa, nâng một số tảng nặng hàng chục tấn lên độ cao nửa ngàn bộ, và để trả công, hay chí ít là nuôi sống, cả trăm ngàn nô lệ đã đổ mồ hôi suốt hai mươi năm xây dựng những Kim Tự Tháp ấy! Herodotus đã giữ lại cho ta một minh văn ông đọc được trên một kim tự tháp, ghi lại số lượng củ cải, tỏi và hành mà thợ thuyền tiêu thụ trong quá trình xây dựng; ngay cả những thứ đó cũng phải được bất tử. Dẫu vậy, sau tất cả, ta vẫn mang chút thất vọng ra về; có gì đó vừa dã man nguyên thủy, vừa dã man hiện đại, trong cơn khát thô bạo đối với sự to lớn. Chính ký ức và trí tưởng tượng của người nhìn, vốn đầy ắp lịch sử, đã làm nên vẻ vĩ đại cho những công trình này; tự thân chúng có phần khôi hài — những ngôi mộ phô trương, nơi kẻ chết đi tìm sự bất tử. Có lẽ tranh ảnh đã quá mức tôn vinh chúng: nhiếp ảnh có thể bắt được tất cả trừ bụi bẩn, và thường nâng giá trị công trình nhân tạo bằng những viễn cảnh đất trời hùng vĩ. Hoàng hôn ở Gizeh còn vĩ đại hơn Kim Tự Tháp.

2. Lên thượng nguồn

Memphis — Kiệt tác của Nữ hoàng Hatshepsut — “Những tượng khổng lồ Memnon” — Luxor và Karnak — Sự huy hoàng của nền văn minh Ai Cập

Từ Cairo, một con tàu nhỏ xuôi ngược dòng — nghĩa là đi về phía nam — chầm chậm sáu ngày thì tới Karnak và Luxor. Hai mươi dặm phía hạ lưu Cairo là Memphis, kinh đô cổ xưa nhất của Ai Cập. Ở đây, nơi triều đại III và IV hùng mạnh từng trị vì, trong một đô thị hai triệu dân, nay chẳng còn lại gì ngoài dãy kim tự tháp nhỏ và một vườn cọ; ngoài ra chỉ còn sa mạc, vô tận, dữ dội, thứ cát xấu xa trơn trượt dưới chân, rát bỏng đôi mắt, len vào từng lỗ chân lông, phủ lên mọi vật, trải dài từ Maroc, băng qua Sinai, Ả Rập, Turkestan, Tây Tạng tới Mông Cổ: dọc dải cát ấy, trải suốt hai châu lục, văn minh từng dựng nên những ngai vàng, rồi biến mất, bị xua đuổi như băng tan, bởi khí hậu nóng dần và mưa ít dần. Chỉ dọc theo sông Nile, trong vòng chừng mười dặm hai bên, mới có một dải đất màu mỡ; từ Địa Trung Hải tới Nubia, Ai Cập chỉ bám lấy dải đất ấy, giành giật nó từ sa mạc. Đó chính là sợi chỉ mà sự sống Ai Cập treo vào. Và quả thật, đời Hy Lạp ngắn ngủi, ngàn năm La Mã cũng thoáng qua, khi so với dòng thời gian từ Menes đến Cleopatra!

Một tuần sau, tàu cập bến Luxor. Nơi đây, giờ bị phủ bởi làng Ả Rập và cồn cát, xưa kia từng đứng hiên ngang là kinh đô vĩ đại nhất Ai Cập, thành phố giàu có bậc nhất của thế giới cổ xưa, mà người Hy Lạp gọi là Thebes, còn dân bản địa gọi là Wesi hay Ne. Bờ đông sông Nile là Cung điện Mùa Đông trứ danh ở Luxor, ngập trong sắc hoa giấy đỏ rực; bên kia sông, mặt trời lặn xuống biển cát trên vùng Mộ các Vị vua, và bầu trời rực rỡ những vệt tím pha vàng. Xa xa về phía tây, những cột đá của ngôi đền cao quý Nữ hoàng Hatshepsut sáng lên, chẳng khác nào một hàng cột Hy Lạp cổ điển.

Sáng sớm, những chiếc thuyền buồm lười nhác đưa khách vượt qua con sông êm đềm giản dị đến nỗi chẳng ai ngờ nó đã lặng lẽ chảy ở đây hàng thiên niên kỷ. Rồi là từng dặm sa mạc nối tiếp, qua những khe núi bụi mù và những ngôi mộ lịch sử, cho tới khi kiệt tác của vị Nữ hoàng vĩ đại hiện ra, trắng muốt trong cái nóng run rẩy. Ở đây, người nghệ sĩ đã quyết định biến thiên nhiên và đồi núi của bà thành một vẻ đẹp còn cao hơn bản thân nó: ngay vào mặt vách đá granit, ông dựng nên những hàng cột uy nghi, chẳng kém gì những cột mà Ictinus từng dựng cho Pericles; thấy được những cột này, khó mà còn nghi ngờ Hy Lạp đã lấy kiến trúc của mình, có lẽ qua Crete, từ giống nòi tiên phong này. Và trên các vách tường, những bức phù điêu khổng lồ, sống động trong chuyển động và tư tưởng, kể lại câu chuyện về người phụ nữ vĩ đại đầu tiên trong lịch sử, cũng là một trong những vị nữ hoàng xuất chúng nhất.

Trên đường quay lại, sừng sững hai pho tượng khổng lồ bằng đá, khắc họa vị quân vương xa hoa bậc nhất của Ai Cập, Amenhotep III, nhưng lại bị những sách hướng dẫn của Hy Lạp gọi nhầm là “Những tượng khổng lồ Memnon.” Mỗi tượng cao bảy mươi bộ, nặng bảy trăm tấn, tạc từ một khối đá duy nhất. Trên bệ một tượng còn có khắc chữ của những khách Hy Lạp từng tới đây cách nay hai ngàn năm; lại một lần nữa, những thế kỷ biến mất khỏi tầm tính toán, và những người Hy Lạp ấy dường như hiện diện đồng thời với chúng ta, trước những chứng tích cổ xưa này. Cách đó một dặm về phía bắc là tàn tích đá của Rameses II, một trong những nhân vật lôi cuốn nhất của lịch sử, bên cạnh ông, Alexander chỉ là kẻ non nớt vụn vặt; sống tới chín mươi chín năm, làm hoàng đế sáu mươi bảy năm, sinh một trăm năm mươi người con; giờ ông chỉ còn là bức tượng, từng cao năm mươi sáu bộ, nay dài năm mươi sáu bộ, nằm sóng soài nực cười giữa cát. Các học giả của Napoleon đã hăm hở đo đạc ông; họ thấy tai ông dài ba bộ rưỡi, bàn chân ông rộng năm bộ, trọng lượng ông cả ngàn tấn; đối với ông, Bonaparte hẳn nên dùng câu chào về sau ông dành cho Goethe: “Voilà un homme!” — Hãy xem đây, một con người!

Khắp nơi bây giờ, dọc bờ tây sông Nile, là “Thành phố của Người chết.” Mỗi bước chân lại có một nhà khảo cổ đào lên mộ một vị vua. Mộ của Tutankhamon đóng kín, khóa chặt trước cả những kẻ tưởng rằng vàng có thể mở được mọi thứ; nhưng mộ Seti I thì mở, và ở đó, giữa lòng đất mát rượi, ta có thể chiêm ngưỡng những trần vòm và hành lang trang trí tinh xảo, và kinh ngạc trước sự giàu có cùng kỹ nghệ đã làm nên những quan tài đá lộng lẫy và vây quanh chúng bằng nghệ thuật diệu kỳ. Trong một ngôi mộ, các nhà khai quật đã thấy trên cát vẫn còn dấu chân của những nô lệ khiêng xác ướp đặt xuống, ba ngàn năm về trước.

Nhưng những công trình đẹp nhất lại nằm ở bờ đông sông. Tại Luxor, đức vua oai phong Amenhotep III, dùng chiến lợi phẩm từ các cuộc viễn chinh của Thutmose III, đã khởi công xây dựng công trình lộng lẫy nhất của mình; nhưng cái chết đã đến khi ông còn đang dựng dở; rồi, sau cả thế kỷ bị bỏ hoang, Rameses II hoàn tất nó với phong cách hoàng đế. Và ngay lập tức, tinh hoa kiến trúc Ai Cập ùa vào tâm hồn ta: đây là tầm vóc và sức mạnh, không chỉ vẻ đẹp, mà là một sự hùng vĩ nam tính. Một quảng trường rộng, nay phủ đầy cát, xưa kia lát bằng đá cẩm thạch; ba phía là hàng cột nguy nga, chỉ Karnak mới sánh kịp; khắp nơi là phù điêu khắc đá, và tượng đế vương vẫn hiên ngang dù trong hoang phế. Hãy hình dung tám thân cây papyrus vươn cao — loài cây cưu mang chữ viết, nay thành hình thức nghệ thuật; ở chân là những búp hoa chưa nở, được bó lại bằng năm đai chắc chắn, khiến cho vẻ đẹp thêm sức mạnh; rồi tưởng tượng cả thân cây uy nghi ấy biến thành đá: đó chính là cột hình papyrus của Luxor. Hãy tưởng tượng một quảng trường với những cột như thế, nâng đỡ các dầm đá nặng nề và mái hiên rợp bóng; hãy nhìn toàn cảnh như ba mươi thế kỷ tàn phá đã để lại; rồi thử đánh giá những con người, vào buổi mà ta từng nghĩ là “tuổi ấu thơ của văn minh,” lại có thể sáng tạo và hoàn thành những công trình như thế.

Qua những phế tích cổ đại và cảnh nghèo nàn hiện đại, một lối mòn gồ ghề dẫn tới thứ mà Ai Cập giữ lại như món quà cuối cùng của mình — các ngôi đền ở Karnak. Năm mươi vị Pharaoh đã góp phần xây dựng chúng, từ những triều đại cuối của Cổ Vương quốc cho đến thời Ptolemy; đời nối đời, công trình dần mở rộng, cho đến khi sáu mươi mẫu đất phủ kín những lễ vật uy nghiêm nhất mà kiến trúc từng dâng lên thần linh. Một “Đại lộ Nhân Sư” dẫn tới nơi mà Champollion, người khai sinh ngành Ai Cập học, từng đứng vào năm 1828 và viết:

“Cuối cùng tôi đã đến cung điện, hay đúng hơn là thành phố của các di tích — đến Karnak. Ở đó, tất cả sự huy hoàng của các Pharaoh hiện ra trước mắt tôi, tất cả những gì con người từng hình dung và thực hiện ở quy mô tráng lệ nhất… Không một dân tộc nào, cổ đại hay hiện đại, từng nghĩ đến nghệ thuật kiến trúc trên một quy mô siêu phàm, vĩ đại, hùng vĩ đến thế, như người Ai Cập cổ. Họ đã nghĩ như những con người cao một trăm bộ.”

Để hiểu hết nơi này, cần có bản đồ, sơ đồ, và cả vốn học của một kiến trúc sư. Một khu bao bọc rộng lớn với nhiều sân, mỗi cạnh dài một phần ba dặm; từng có tới tám mươi sáu ngàn pho tượng; nhóm công trình chính là Đền Amon, dài một ngàn bộ, rộng ba trăm bộ; những cổng khổng lồ dẫn từ sân này sang sân khác; những “Cột Huy hiệu” hoàn hảo của Thutmose III, nay bị chặt cụt phần ngọn, nhưng vẫn còn nguyên vẻ tinh xảo và duyên dáng; Hội trường Lễ hội của vị quân vương hùng mạnh ấy, với những thân cột khía rãnh báo trước toàn bộ sức mạnh của cột Doric ở Hy Lạp; ngôi đền nhỏ thờ Ptah, với những cột duyên dáng chẳng kém gì hàng cọ bên cạnh; Lối đi, cũng do thợ của Thutmose xây dựng, với những hàng cột trơ trọi và đồ sộ, biểu tượng của “Napoleon của Ai Cập”; và trên hết, Đại Sảnh Hypostyle, cả một khu rừng với một trăm bốn mươi cột khổng lồ, chen sát nhau để chắn ánh mặt trời thiêu đốt, tỏa ra ở đỉnh thành những vòm hoa đá, nâng đỡ, bằng sức mạnh hùng vĩ, một mái trần khổng lồ bằng những tảng đá granit liền khối trải ngang từ đỉnh cột này sang đỉnh cột khác. Gần đó, hai cây tháp đá mảnh mai, những khối đơn thạch hoàn hảo trong cân xứng và duyên dáng, vươn lên như những trụ sáng giữa phế tích tượng đài và đền đài, và công bố trong minh văn của mình sứ điệp kiêu hãnh của Nữ hoàng Hatshepsut gửi tới thế giới. Những cây tháp này, văn khắc ghi rằng:

“Chúng được tạc từ granit cứng ở các mỏ đá phương Nam; đỉnh của chúng được dát bằng vàng ròng chọn từ những thứ tốt nhất khắp ngoại bang. Chúng có thể nhìn thấy từ xa trên sông; ánh sáng rực rỡ của chúng phủ đầy Hai Vùng đất; và khi mặt trời ló lên giữa hai đỉnh tháp, quả thật chẳng khác nào ngài vừa trỗi dậy trên chân trời của bầu trời… Các ngươi, những kẻ sau nhiều năm sẽ nhìn thấy những công trình này, sẽ nói về những gì ta đã làm, sẽ thốt lên: ‘Chúng ta không biết, chúng ta không biết làm sao họ có thể làm nên cả một ngọn núi vàng như thế.’… Để dát vàng chúng, ta đã hiến tặng vàng tính theo đấu, chẳng khác nào những bao ngũ cốc… vì ta biết rằng Karnak chính là chân trời thiên giới của trái đất.”

Ôi, một nữ hoàng, và những vị vua như thế! Có lẽ nền văn minh vĩ đại đầu tiên này cũng là nền văn minh rực rỡ nhất trong tất cả, và chúng ta mới chỉ bắt đầu khai mở vinh quang của nó? Gần Hồ Thánh ở Karnak, những người lao công đang kiên nhẫn đào bới, gánh đất trong đôi giỏ nhỏ treo trên vai; một nhà Ai Cập học đang say mê cúi nhìn những chữ tượng hình trên hai tảng đá vừa được giải thoát khỏi lòng đất; ông chỉ là một trong cả ngàn con người như thế — những Carter, Breasted, Maspero, Petrie, Capart, Weigall — sống giản dị nơi nóng bụi này, cố gắng đọc cho chúng ta câu đố của Nhân Sư, giật ra từ lớp đất bí ẩn nghệ thuật và văn chương, lịch sử và minh triết của Ai Cập. Mỗi ngày, đất và trời chống lại họ; mê tín chửi rủa và cản trở họ; ẩm ướt và ăn mòn tấn công chính những công trình mà họ đã khai quật; và chính con sông Nile, vốn nuôi sống Ai Cập, lại trong mùa lũ len vào tàn tích Karnak, làm lung lay cột đá, xô đổ chúng xuống, và khi nước rút, để lại trên đó lớp muối diêm tiêu, gặm nhấm vào đá như bệnh phong cùi.

Hãy chiêm ngưỡng vinh quang Ai Cập một lần nữa, trong lịch sử và văn minh của nàng, trước khi những di tích cuối cùng tan biến vào cát bụi.

II. NHỮNG KIẾN TRÚC SƯ VĨ ĐẠI

1. Sự phát hiện ra Ai Cập

Champollion và Tấm bia Rosetta

Việc phục hồi tri thức về Ai Cập là một trong những chương rực rỡ nhất của khảo cổ học. Thời Trung Cổ chỉ biết đến Ai Cập như một thuộc địa La Mã và một xứ định cư Ki-tô giáo; thời Phục Hưng thì cho rằng văn minh khởi nguyên từ Hy Lạp; ngay cả Thời Khai Sáng, dù quan tâm thông minh đến Trung Hoa và Ấn Độ, cũng chẳng biết gì về Ai Cập ngoài Kim Tự Tháp. Ai Cập học, thực ra, là một sản phẩm phụ của chủ nghĩa đế quốc Napoléon. Khi vị người Corse vĩ đại ấy dẫn một đoàn viễn chinh Pháp tới Ai Cập năm 1798, ông mang theo một số họa viên và kỹ sư để khảo sát, vẽ bản đồ địa hình, và cũng dành chỗ cho vài học giả kỳ quặc, những người quan tâm đến Ai Cập chỉ vì muốn hiểu lịch sử nhiều hơn. Chính nhóm học giả ấy là những người đầu tiên giới thiệu các đền Luxor và Karnak cho thế giới hiện đại; và bộ sách công phu Description de l’Égypte (1809–1813) mà họ soạn cho Viện Hàn lâm Pháp là cột mốc đầu tiên trong việc nghiên cứu khoa học nền văn minh bị lãng quên này.

Tuy vậy, suốt nhiều năm liền, họ vẫn không thể đọc được những dòng chữ còn sót lại trên các bia ký. Điển hình cho tinh thần khoa học chính là sự tận tụy kiên nhẫn mà Champollion, một trong các học giả ấy, đã dành cho việc giải mã chữ tượng hình. Cuối cùng ông tìm thấy một cây tháp đá (obelisk) phủ đầy những “dấu khắc thiêng liêng” bằng Ai Cập, nhưng dưới chân lại có một hàng chữ Hy Lạp chỉ ra rằng nội dung văn bản liên quan đến Ptolemy và Cleopatra. Đoán rằng hai ký hiệu tượng hình được lặp lại nhiều lần kèm theo khung hoàng gia (cartouche) chính là tên của hai vị vua này, ông tạm thời xác định được mười một chữ cái Ai Cập (1822); đây là bằng chứng đầu tiên cho thấy Ai Cập từng có bảng chữ cái.

Sau đó ông đem bảng chữ cái này áp dụng vào một tấm bia đá đen lớn mà quân đội Napoléon tình cờ phát hiện gần cửa sông Rosetta của Nile. “Tấm bia Rosetta” này chứa một văn bản khắc bằng ba thứ chữ: thứ nhất là chữ tượng hình, thứ hai là “chữ demotic” — dạng chữ phổ thông của người Ai Cập, và thứ ba là chữ Hy Lạp. Nhờ kiến thức về Hy Lạp và mười một chữ cái rút ra từ tháp đá, Champollion, sau hơn hai mươi năm miệt mài, đã giải mã toàn bộ văn bản, phát hiện trọn vẹn bảng chữ cái Ai Cập, và mở đường cho việc phục hồi cả một thế giới đã mất. Đó là một trong những đỉnh cao của lịch sử — lịch sử của chính Lịch sử.

2. Ai Cập tiền sử

Thời Đá cũ — Thời Đá mới — Người Badari — Tiền triều đại — Chủng tộc

Bởi lẽ những kẻ cấp tiến của một thời thường trở thành kẻ bảo thủ của thời kế tiếp, nên không thể kỳ vọng rằng những người sáng lập ngành Ai Cập học lại là những kẻ đầu tiên thừa nhận tính xác thực của di tích thuộc Thời Đá cũ ở Ai Cập; sau bốn mươi năm, les savants ne sont pas curieux — các học giả chẳng còn hiếu kỳ nữa. Khi những mảnh đá lửa đầu tiên được khai quật ở thung lũng sông Nile, Sir Flinders Petrie, vốn chẳng phải người hay ngập ngừng khi đưa ra con số, đã xếp chúng vào sản phẩm của thời kỳ hậu triều đại; còn Maspero, bậc uyên thâm lẫy lừng, dù học thức cao ngất cũng chẳng hề làm hỏng văn phong tao nhã và trau chuốt của ông, lại quy những đồ gốm thời Đá mới Ai Cập về Trung Vương quốc. Thế nhưng, vào năm 1895, De Morgan đã phát hiện một chuỗi gần như liên tục các nền văn hóa thời Đá cũ — tương ứng một cách đáng kể với sự nối tiếp của chúng ở châu Âu — trong những chiếc rìu tay bằng đá lửa, lao, mũi tên và búa khai quật dọc theo sông Nile.

Một cách khó nhận thấy, các di vật Thời Đá cũ chuyển dần sang Thời Đá mới ở những tầng đất cho thấy niên đại từ 10.000–4000 năm trước Công nguyên. Các công cụ đá ngày càng tinh xảo hơn, đạt đến mức độ sắc bén, hoàn thiện và chính xác mà chưa nền văn hóa Đá mới nào khác sánh kịp. Về cuối giai đoạn này, đồ kim loại bắt đầu xuất hiện dưới dạng bình, đục, kim bằng đồng, và cả trang sức bằng bạc và vàng.

Sau cùng, như một bước chuyển sang lịch sử, nông nghiệp xuất hiện. Năm 1901, gần thị trấn nhỏ Badari (nằm giữa Cairo và Karnak), người ta khai quật được những thi hài bên cạnh các công cụ cho thấy niên đại xấp xỉ bốn ngàn năm trước Công nguyên. Trong ruột những thi hài này, được giữ nguyên suốt sáu nghìn năm nhờ sức nóng khô của cát, còn có vỏ trấu của lúa mạch chưa tiêu hóa hết. Vì lúa mạch không mọc hoang ở Ai Cập, người ta suy ra rằng người Badari đã học cách trồng ngũ cốc. Ngay từ thời xa xưa đó, cư dân thung lũng sông Nile đã bắt đầu công cuộc dẫn thủy nhập điền, phát quang rừng rậm và đầm lầy, giành lại dòng sông từ cá sấu và hà mã, và từ từ đặt nền móng cho văn minh.

Những di tích này cùng các phát hiện khác cho ta hình dung phần nào về đời sống Ai Cập trước khi xuất hiện các triều đại lịch sử đầu tiên. Đó là một nền văn hóa nằm giữa săn bắn và nông nghiệp, chỉ vừa bắt đầu thay thế công cụ đá bằng công cụ kim loại. Người dân biết làm thuyền, xay ngũ cốc, dệt vải lanh và thảm, chế tác trang sức và hương liệu, có thợ cạo và gia súc thuần dưỡng, và họ thích thú vẽ tranh, chủ yếu là hình những con mồi họ săn đuổi. Họ vẽ lên gốm mộc mạc những hình phụ nữ than khóc, những hình người và thú, cũng như các họa tiết hình học; và họ tạc ra những tác phẩm xuất sắc như con dao Gebel-el-Arak. Họ đã có chữ viết tượng hình, và cả ấn hình trụ giống như người Sumer.

Không ai biết chắc những cư dân Ai Cập sơ khai này từ đâu mà đến. Các giả thuyết học thuật thiên về quan điểm cho rằng họ là sự pha trộn giữa người Nubia, Ethiopia, Libya bản địa một bên, và những người Semit hoặc Armenoid di cư một bên; ngay cả thời ấy, trên thế giới đã không hề có “chủng tộc thuần khiết.” Có lẽ những kẻ xâm nhập hay di dân từ Tây Á đã mang theo một nền văn hóa cao hơn, và cuộc hôn phối của họ với các dòng giống bản địa cường tráng đã tạo ra sự pha trộn chủng tộc vốn thường là khúc dạo đầu cho một nền văn minh mới. Từ từ, trong khoảng từ 4000 đến 3000 năm trước Công nguyên, những cộng đồng lai hợp ấy đã hợp nhất thành một dân tộc, và dựng nên Ai Cập của lịch sử.

3. Cổ Vương quốc

Các “nome” — Cá nhân lịch sử đầu tiên — “Cheops” — “Chephren” — Mục đích của Kim Tự Tháp — Nghệ thuật trong lăng mộ — Ướp xác

Ngay từ khoảng năm 4000 TCN, cư dân ven sông Nile đã hình thành một thể chế chính trị. Dân cư dọc con sông được chia thành các “nome”*, trong mỗi nome, dân cư về căn bản thuộc cùng một huyết thống, cùng thờ một totem, tuân phục một thủ lĩnh, và phụng sự cùng những vị thần bằng các nghi lễ chung. Suốt chiều dài lịch sử Ai Cập cổ đại, các nome vẫn tồn tại, với các “nomarch” hay thủ lĩnh có mức độ quyền lực và tự trị nhiều hay ít tùy thuộc vào sức mạnh hay sự suy yếu của Pharaoh đương triều. Cũng như mọi cấu trúc đang phát triển đều có xu hướng gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau của các phần, ở đây cũng vậy: sự phát triển của thương mại và chi phí leo thang của chiến tranh đã buộc các nome phải hợp nhất thành hai vương quốc — một ở phía Nam, một ở phía Bắc; một sự phân chia có lẽ phản ánh mâu thuẫn giữa cư dân bản địa châu Phi và dân di cư gốc Á. Sự chia rẽ nguy hiểm về địa lý và chủng tộc ấy tạm thời được giải quyết khi Menes, một nhân vật nửa huyền thoại, đem “Hai Miền đất” đặt dưới quyền thống nhất của mình, ban hành một bộ luật được cho là do thần Thoth trao ban, thiết lập vương triều lịch sử đầu tiên, xây dựng kinh đô mới tại Memphis, và, theo lời một sử gia Hy Lạp cổ, đã “dạy dân chúng dùng bàn ăn và giường ghế, và… đưa vào lối sống xa hoa phóng túng.”

Nhân vật thực sự đầu tiên trong lịch sử được biết đến không phải là kẻ chinh phục hay một vị vua, mà là một nghệ sĩ và một nhà khoa học — Imhotep, thầy thuốc, kiến trúc sư và tể tướng của vua Zoser (khoảng 3150 TCN). Ông đã đóng góp cho y học Ai Cập đến mức hậu thế tôn thờ ông như một vị thần tri thức, là tác giả của các khoa học và nghệ thuật của họ; đồng thời, ông dường như cũng là người sáng lập trường phái kiến trúc đã cung cấp cho vương triều kế tiếp những nhà kiến tạo vĩ đại đầu tiên của lịch sử. Theo truyền thuyết Ai Cập, chính dưới thời ông, căn nhà đá đầu tiên được dựng nên; chính ông là người quy hoạch công trình Ai Cập cổ nhất còn tồn tại — Kim Tự Tháp Bậc thang ở Sakkara, một công trình bậc thang bằng đá, đã định hình phong cách lăng mộ suốt nhiều thế kỷ; và cũng chính ông dường như đã thiết kế ngôi đền tang lễ của Zoser, với những cột đá hoa sen duyên dáng và những bức tường ốp đá vôi. Trong những di tích cổ tại Sakkara, gần như ở buổi khởi nguyên của nghệ thuật Ai Cập lịch sử, ta đã thấy những thân cột khía rãnh duyên dáng chẳng kém gì những cột mà Hy Lạp sau này sẽ dựng nên; những bức phù điêu chan chứa sức sống và hiện thực; những sản phẩm bằng faïence xanh — đồ gốm tráng men rực rỡ sắc màu, sánh ngang với sản phẩm của nước Ý trung cổ; và một pho tượng đá uy nghi của vua Zoser, tuy bị thời gian gặm mòn nhiều chi tiết, nhưng gương mặt vẫn bộc lộ sự tinh tế và điêu luyện đáng kinh ngạc.

Chúng ta không biết điều kiện nào đã khiến Vương triều IV trở thành triều đại quan trọng nhất trong lịch sử Ai Cập trước Vương triều XVIII. Có thể đó là nhờ những hoạt động khai mỏ sinh lợi trong triều đại cuối cùng của Vương triều III; có thể là nhờ sự vươn lên của thương nhân Ai Cập trong thương mại Địa Trung Hải; cũng có thể nhờ sức mạnh tàn bạo của Khufu*, vị Pharaoh đầu tiên của triều đại mới. Herodotus đã truyền lại cho chúng ta những truyền thuyết của giới tư tế Ai Cập về vị vua xây dựng kim tự tháp đầu tiên ở Gizeh này:

“Họ kể tôi nghe rằng cho tới triều đại Rhampsinitus thì sự công bằng được phân phối hoàn hảo và toàn Ai Cập trong cảnh thịnh vượng; nhưng sau đó Cheops lên ngôi và lao vào mọi thứ tội ác: ông đóng cửa tất cả đền đài, và… ra lệnh cho toàn dân Ai Cập lao động cho mình. Một số được giao kéo đá từ mỏ ở dãy núi Ả Rập xuống sông Nile, số khác thì phải tiếp nhận những tảng đá khi chúng được vận chuyển bằng thuyền qua sông… Họ làm việc với số lượng một trăm ngàn người một lúc, mỗi nhóm trong vòng ba tháng. Quãng thời gian mà dân chúng bị đày đọa lao dịch kéo dài mười năm, để làm con đường mà họ xây dựng, con đường mà trên đó họ kéo những tảng đá; một công trình, theo ý tôi, không kém phần vĩ đại so với Kim Tự Tháp.”

Về người kế vị ông và cũng là kẻ xây dựng đối thủ, Khafre*, ta biết được đôi điều gần như từ chính tay ông; bởi bức chân dung bằng diorite, hiện là một trong những báu vật của Bảo tàng Cairo, đã khắc họa ông — nếu không phải đúng như dung mạo thực, thì cũng hẳn là như ta có thể hình dung về vị Pharaoh của Kim Tự Tháp thứ hai, người trị vì Ai Cập suốt năm mươi sáu năm. Trên đầu ông là chim ưng, biểu tượng của vương quyền; nhưng ngay cả khi không có dấu hiệu ấy, ta vẫn biết rằng ông từng tấc là một vị quân vương. Tự hào, thẳng thắn, không biết sợ, đôi mắt sắc bén; chiếc mũi đầy uy lực và cả một thân hình toát ra sức mạnh kiềm chế mà trầm tĩnh; hiển nhiên thiên nhiên đã từ lâu biết cách tạo nên những con người như thế, và nghệ thuật từ lâu đã biết cách khắc họa họ.

Tại sao những con người ấy lại xây dựng Kim Tự Tháp? Mục đích của chúng không phải kiến trúc mà là tôn giáo; Kim Tự Tháp là lăng mộ, xuất phát trực tiếp từ những gò mộ nguyên thủy nhất. Dường như các Pharaoh cũng tin, như bất cứ thường dân nào trong xứ, rằng mỗi thân xác đều có một linh hồn kép, gọi là ka, vốn không nhất thiết phải chết theo hơi thở; và ka sẽ tồn tại đầy đủ hơn nếu thể xác được bảo vệ khỏi đói khát, hủy hoại và phân rã. Kim Tự Tháp, bằng độ cao, hình dạng và vị trí của nó, tìm kiếm sự ổn định như một phương thế để đạt đến sự bất tử; và ngoại trừ những góc vuông, nó mang hình thức tự nhiên mà bất kỳ khối rắn đồng chất nào cũng sẽ có nếu được để mặc rơi xuống đất. Một lần nữa, nó nhằm tới sự vĩnh cửu và sức mạnh; thế nên đá được chồng chất nơi đây với sự kiên nhẫn điên cuồng, như thể chúng mọc sẵn bên đường chứ không phải được chở từ mỏ đá cách hàng trăm dặm. Trong Kim Tự Tháp của Khufu có hai triệu rưỡi khối đá, một số nặng đến 150 tấn, tất cả trung bình khoảng hai tấn rưỡi; chúng phủ kín nửa triệu bộ vuông diện tích, và vươn cao 481 bộ lên trời. Toàn khối đặc rắn; chỉ bỏ ra vài khối để tạo một hành lang bí mật cho xác của nhà vua. Người hướng dẫn đưa du khách run rẩy bò bằng cả tứ chi vào ngôi mộ hang động ấy, leo trăm bậc thang khom lưng tới tận tim Kim Tự Tháp; tại trung tâm ẩm thấp, tĩnh lặng, chìm trong bóng tối và bí mật, xưa kia từng yên nghỉ hài cốt của Khufu và hoàng hậu. Quan tài đá hoa cương của Pharaoh vẫn còn tại chỗ, nhưng đã vỡ và trống rỗng. Ngay cả những khối đá ấy cũng không ngăn được bàn tay trộm cắp của con người, cũng chẳng ngăn nổi mọi lời nguyền rủa của thần linh.

ka được xem như hình ảnh thu nhỏ của thân xác, nên nó cần được nuôi dưỡng, mặc áo và phục dịch ngay cả sau khi thân xác đã chết. Một số lăng mộ hoàng gia có cả nhà vệ sinh để tiện cho linh hồn ra đi; và một văn bản tang lễ bày tỏ sự lo âu rằng ka, nếu thiếu thức ăn, có thể phải ăn chính chất thải của mình. Người ta nghi ngờ rằng phong tục mai táng Ai Cập, nếu lần ngược đến cội nguồn, sẽ dẫn ta đến tập tục chôn theo vũ khí cùng xác chiến binh, hoặc tới một thể chế như tục suttee của Ấn Độ — nơi vợ và nô lệ được chôn cùng người chết để hầu hạ cho họ. Vì điều này hóa ra phiền toái cho các bà vợ và nô lệ, nên các họa sĩ và nhà điêu khắc được thuê để vẽ tranh, tạc phù điêu, chế tác tượng nhỏ thay thế những người hầu này; nhờ một công thức ma thuật, thường được khắc kèm, những hình vẽ hay tượng khắc ấy sẽ hữu hiệu chẳng kém gì người thật. Con cháu của người chết thường lười biếng và tiết kiệm, và ngay cả khi ông ta để lại một quỹ tiền để lo chi phí, họ cũng dễ bỏ bê điều luật tôn giáo từng buộc họ phải cung cấp lương thực cho người quá cố. Thế nên, những hình ảnh thay thế đó trong mọi trường hợp là một biện pháp khôn ngoan: chúng có thể đem đến cho ka của người chết cả cánh đồng phì nhiêu, những con bò béo tốt, vô số đầy tớ và thợ thủ công bận rộn — với cái giá hấp dẫn rẻ hơn nhiều. Một khi nguyên lý này được khám phá, nghệ sĩ đã làm nên những kỳ công. Một bức vẽ trong mộ cho thấy cảnh cày ruộng, bức tiếp theo cảnh gặt hoặc đập lúa, rồi cảnh nướng bánh mì; một bức cho thấy bò đực giao phối với bò cái, bức khác cảnh bê con được sinh ra, bức nữa cảnh gia súc trưởng thành bị giết thịt, rồi cảnh món thịt được bày nóng hổi trên bàn. Một phù điêu đá vôi tuyệt đẹp trong mộ hoàng tử Rahotep khắc họa người chết đang thụ hưởng đủ món ăn phong phú trên bàn trước mặt. Chưa bao giờ kể từ đó, nghệ thuật lại làm được nhiều đến thế cho con người.

Sau cùng, ka được bảo đảm trường thọ không chỉ nhờ chôn cất xác trong quan tài bằng loại đá cứng nhất, mà còn nhờ công phu ướp xác tỉ mỉ. Công việc này được thực hiện khéo léo đến mức đến nay tóc và da thịt vẫn còn bám nơi xương cốt các Pharaoh. Herodotus đã mô tả sinh động nghệ thuật ướp xác của người Ai Cập:

“Trước hết, họ dùng móc sắt xuyên qua lỗ mũi mà kéo não ra ngoài, lấy được phần nào thì lấy, phần còn lại thì dùng dược liệu rút ra. Sau đó, họ dùng một lưỡi đá sắc rạch một đường ở sườn, rồi lấy toàn bộ ruột gan ra; sau khi rửa sạch bụng và súc bằng rượu cọ, họ rắc thêm hương liệu tán nhỏ. Tiếp đó, họ nhồi bụng bằng nhựa thơm nguyên chất, quế và những hương liệu khác, rồi khâu lại; làm xong, họ ngâm xác trong natron*, để nguyên trong đó bảy mươi ngày; bởi vì không được phép ngâm quá thời gian ấy. Khi hết bảy mươi ngày, họ rửa xác, rồi quấn cả thân thể trong vải bọc tẩm sáp, thoa nhựa cây, thứ mà người Ai Cập thường dùng thay keo. Sau đó thân nhân đem xác về, làm một quan tài gỗ hình dáng con người, đặt xác vào trong; rồi khi đã đóng kín, họ cất giữ trong một phòng mộ, dựng đứng bên tường. Bằng cách đó, họ chuẩn bị xác cho những người được ướp theo nghi thức tốn kém nhất.”

“Tất cả thế gian đều sợ Thời gian,” một tục ngữ Ả Rập nói, “nhưng Thời gian lại sợ Kim Tự Tháp.” Thế nhưng, Kim Tự Tháp của Khufu đã mất đi hai mươi bộ chiều cao, và toàn bộ lớp đá hoa cương bọc ngoài xưa kia đã biến mất; có lẽ Thời gian chỉ đang từ tốn với nó. Bên cạnh đó là Kim Tự Tháp của Khafre, nhỏ hơn chút ít, nhưng vẫn còn giữ phần đỉnh đá hoa cương từng phủ khắp nó. Khiêm tốn ở phía xa hơn là Kim Tự Tháp của Menkaure, kế vị Khafre, được bao phủ không phải bằng đá hoa cương mà bằng những viên gạch xấu hổ, như thể muốn tuyên bố rằng khi nó được dựng lên, đỉnh cao của Cổ Vương quốc đã qua. Những pho tượng của Menkaure còn lại cho thấy ông là con người tinh tế hơn, nhưng kém mạnh mẽ hơn Khafre. Văn minh, cũng như đời sống, thường hủy diệt chính điều mà nó đã hoàn thiện. Có lẽ, sự gia tăng tiện nghi và xa hoa, tiến bộ trong cung cách và đạo lý, đã khiến con người trở thành kẻ yêu hòa bình và ghét chiến tranh. Bất chợt, một nhân vật mới xuất hiện, đoạt ngôi của Menkaure, và chấm dứt triều đại của những người xây Kim Tự Tháp.

4. Trung Vương quốc

Thời kỳ phong kiến — Vương triều thứ Mười hai — Thời thống trị của người Hyksos

Các vị vua chưa bao giờ nhiều như ở Ai Cập. Lịch sử gom họ vào các vương triều — những vị quân chủ cùng một dòng dõi hay gia tộc; nhưng ngay cả thế cũng đã khiến trí nhớ con người phải gánh vác nặng nề. Một trong những Pharaoh đầu thời này, Pepi II, trị vì Ai Cập suốt 94 năm (2738–2644 TCN) — triều đại dài nhất trong lịch sử. Khi ông qua đời, hỗn loạn và tan rã tràn đến, các Pharaoh mất quyền kiểm soát, và các lãnh chúa phong kiến cai trị từng nome độc lập: sự luân phiên giữa tập quyền và phân quyền này là một trong những nhịp điệu tuần hoàn của lịch sử, như thể loài người thay nhau mệt mỏi với tự do thái quá và trật tự thái quá. Sau một Thời kỳ Tăm tối kéo dài bốn thế kỷ hỗn loạn, một nhân vật Charlemagne cứng rắn đã nổi lên, sắp xếp lại mọi thứ một cách nghiêm khắc, dời kinh đô từ Memphis đến Thebes, và dưới tước hiệu Amenemhet I, đã khai mở Vương triều XII, trong đó tất cả các nghệ thuật — trừ kiến trúc, có lẽ vậy — đều đạt đến một đỉnh cao xuất sắc chưa từng có trong Ai Cập, cả trước lẫn sau này. Trong một bia khắc cổ, Amenemhet đã để lại lời tự xưng:

“Ta là kẻ gieo hạt và yêu thần mùa gặt;
Sông Nile chào đón ta, và mọi thung lũng;
Không ai đói trong những năm của ta, không ai khát khi ấy;
Người người sống trong an bình nhờ công việc của ta, và nhắc đến ta.”

Phần thưởng dành cho ông lại là một âm mưu phản trắc từ những Talleyrand và Fouché mà chính ông đã đưa lên ngôi cao. Ông đã đập tan nó bằng bàn tay sắt, nhưng để lại cho con trai mình, như một lão Polonius, một bản cuộn dày những lời khuyên cay đắng — một công thức tuyệt vời cho nền chuyên chế, nhưng cũng là cái giá nặng nề để trả cho ngai vàng:

“Hãy lắng nghe những gì ta nói với ngươi,
Để ngươi có thể trở thành vua của mặt đất…
Để ngươi có thể làm tăng điều thiện:
Hãy cứng rắn với mọi thuộc hạ —
Dân chúng sẽ nghe theo kẻ nào khiến họ khiếp sợ;
Đừng bao giờ đến gần họ một mình.
Đừng để lòng ngươi đầy ắp anh em,
Đừng biết một người bạn…
Khi ngươi ngủ, hãy tự canh giữ trái tim mình;
Bởi vì trong ngày xấu, con người chẳng có bạn bè.”

Vị vua nghiêm khắc này, mà qua bốn ngàn năm vẫn hiện ra gần gũi như một con người, đã lập nên một hệ thống hành chính giữ vững suốt nửa thiên niên kỷ. Sự thịnh vượng lại nảy nở, rồi nghệ thuật cũng trỗi dậy; Senusret I đào một con kênh lớn từ sông Nile đến Hồng Hải, đánh lui người Nubia xâm lấn, và dựng nên những ngôi đền lớn ở Heliopolis, Abydos và Karnak; mười pho tượng khổng lồ ngồi của ông đã thách thức thời gian, và nay nằm trong Bảo tàng Cairo. Một Senusret khác — Senusret III — bắt đầu chinh phục Palestine, đánh lùi những đợt Nubia tái xâm, và dựng một bia đá ở biên giới phía Nam, ghi rõ: “Không phải vì mong các ngươi thờ phượng nó, mà để các ngươi chiến đấu vì nó.” Amenemhet III, một nhà quản trị lỗi lạc, người xây dựng kênh đào và thủy lợi, đã chấm dứt (có lẽ quá triệt để) quyền lực của các lãnh chúa phong kiến, thay thế họ bằng những quan lại do vua bổ nhiệm. Mười ba năm sau khi ông qua đời, Ai Cập chìm trong hỗn loạn vì tranh chấp ngai vàng, và Trung Vương quốc khép lại bằng hai thế kỷ xáo trộn và tan rã.

Rồi người Hyksos, những bộ lạc du mục từ châu Á, tràn vào Ai Cập vốn đang chia rẽ, đốt phá thành thị, san phẳng đền đài, tiêu tán của cải tích lũy, hủy hoại phần lớn nghệ thuật đã gầy dựng, và suốt hai trăm năm áp đặt ách cai trị của “Các vua mục tử” lên thung lũng sông Nile. Những nền văn minh cổ đại chỉ là những hòn đảo nhỏ giữa biển cả man rợ, là những cộng đồng phồn vinh bị vây quanh bởi những kẻ săn bắn và chăn nuôi đói khát, ganh tị và hiếu chiến; bất kỳ lúc nào bức tường phòng thủ cũng có thể bị phá vỡ. Thế nên người Kassite đã cướp phá Babylon, người Gaul đã tấn công Hy Lạp và La Mã, người Hun đã tràn ngập Ý, và người Mông Cổ đã tràn xuống Bắc Kinh.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu, những kẻ chinh phục kia rồi cũng béo tốt và sung túc, mất dần kỷ luật; người Ai Cập vùng dậy trong một cuộc chiến giải phóng, đánh đuổi người Hyksos, và lập nên Vương triều XVIII — triều đại sẽ đưa Ai Cập lên đỉnh cao giàu có, quyền lực và vinh quang hơn bao giờ hết.

5. Đế quốc

Nữ hoàng vĩ đại — Thutmose III — Đỉnh cao của Ai Cập

Có lẽ cuộc xâm lược đã đem lại một sự hồi sinh khác nhờ dòng máu mới được pha trộn; nhưng đồng thời, kỷ nguyên mới ấy cũng đánh dấu khởi đầu của một cuộc tranh đấu ngàn năm giữa Ai Cập và Tây Á. Thutmose I không chỉ củng cố quyền lực của đế quốc mới, mà còn — với lý do phải kiểm soát Tây Á để ngăn ngừa những cuộc xáo trộn sau này — tiến đánh Syria, chinh phục vùng đất ấy từ bờ biển đến Carchemish, đặt nó dưới sự giám sát và triều cống, rồi trở về Thebes chất đầy chiến lợi phẩm và vinh quang vốn thường đến từ việc tàn sát con người. Cuối triều đại ba mươi năm, ông đưa con gái Hatshepsut cùng chia sẻ ngai vàng. Một thời gian, chồng đồng thời là anh cùng cha khác mẹ của bà trị vì với tước hiệu Thutmose II, rồi khi mất đi đã chỉ định Thutmose III, con trai của Thutmose I với một phi tần, làm người kế vị. Nhưng Hatshepsut đã gạt chàng thanh niên định mệnh này sang một bên, tự mình nắm trọn vương quyền, và chứng tỏ mình là một vị vua trên mọi phương diện, ngoại trừ giới tính.

Ngay cả ngoại lệ ấy, bà cũng không chịu thừa nhận. Vì truyền thống thiêng liêng đòi rằng mọi Pharaoh đều là con trai của thần Amon vĩ đại, Hatshepsut đã sắp xếp để trở thành vừa nam vừa thần. Một bản tiểu sử được dựng nên kể rằng Amon đã hạ xuống mẹ bà, Ahmasi, trong làn hương thơm và ánh sáng; bà đã vui lòng đón nhận, và khi Amon rời đi, ngài đã tuyên bố rằng Ahmasi sẽ sinh ra một người con gái trong đó tất cả sức mạnh và lòng dũng cảm của thần sẽ hiển hiện nơi trần thế. Để làm vừa lòng định kiến của dân chúng, và có lẽ cũng là khát vọng thầm kín của trái tim mình, vị Nữ hoàng vĩ đại đã cho khắc họa mình trên các bia tượng như một chiến binh có râu và không ngực; và dù các minh văn vẫn dùng đại từ giống cái để gọi bà, họ cũng không ngần ngại xưng tụng bà là “Con trai của Mặt Trời” và “Chúa tể của Hai Miền đất.” Khi xuất hiện trước công chúng, bà mặc trang phục nam giới và mang râu giả.

Bà hoàn toàn có quyền định đoạt giới tính của mình, vì bà đã trở thành một trong những vị quân chủ thành công và nhân từ nhất của Ai Cập. Bà duy trì trật tự trong nước mà không cần bạo ngược, và giữ gìn hòa bình bên ngoài mà không chịu mất mát. Bà tổ chức một cuộc viễn chinh lớn tới Punt (có lẽ là bờ biển phía đông châu Phi), mở ra thị trường mới cho thương nhân và mang đến cho dân chúng những đặc sản mới. Bà góp phần tô điểm cho Karnak, dựng ở đó hai tháp đá huy hoàng, xây tại Der-el-Bahri ngôi đền uy nghi mà cha bà đã thiết kế, và sửa chữa những tổn hại mà các vua Hyksos đã gây ra cho đền đài cổ. Một trong những bia tự hào của bà ghi: “Ta đã phục hồi những gì từng đổ nát; ta đã dựng lại những gì còn dang dở từ khi bọn Á châu ở trong miền Bắc, phá hủy những gì đã được dựng nên.” Sau cùng, bà xây cho mình một lăng mộ bí mật và trang trí công phu giữa những dãy núi cát ở bờ tây sông Nile, nơi về sau được gọi là “Thung lũng các ngôi mộ vua”; những người kế vị bà noi theo, cho đến khi hơn sáu mươi ngôi mộ hoàng gia được khoét vào núi, và thành phố của người chết bắt đầu đông đảo chẳng kém Thebes của người sống. Ở Ai Cập, “phía Tây” của thành phố là nơi ở của giới quý tộc quá cố; “đi về phía Tây” có nghĩa là chết.

Trong hai mươi hai năm, Nữ hoàng trị vì bằng trí tuệ và hòa bình; Thutmose III kế vị bằng một triều đại ngập tràn chiến tranh. Syria nhân cái chết của Hatshepsut liền nổi dậy; người Syria không nghĩ rằng một chàng trai hai mươi hai tuổi như Thutmose có thể duy trì đế quốc do cha ông gây dựng. Nhưng ngay trong năm lên ngôi, Thutmose đã xuất quân, hành quân qua Kantara và Gaza với tốc độ hai mươi dặm một ngày, và đối đầu cùng quân phản loạn tại Har-Megiddo (tức núi Megiddo), một thị trấn nhỏ có vị trí chiến lược giữa hai dãy núi Liban, trên con đường từ Ai Cập sang sông Euphrates — nơi đã trở thành Armageddon của vô số trận chiến, từ ngày ấy cho tới thời tướng Allenby. Tại chính con đèo nơi năm 1918 quân Anh đánh bại quân Thổ, Thutmose III, cách đó 3397 năm, đã đánh bại người Syria và đồng minh. Sau đó, Thutmose tiến quân khải hoàn khắp Tây Á, chinh phục, đánh thuế, bắt triều cống, và trở về Thebes trong khải hoàn chỉ sáu tháng sau khi xuất phát.

Đó là chiến dịch đầu tiên trong số mười lăm cuộc viễn chinh mà vị Thutmose bất khả chiến bại tiến hành, biến Ai Cập thành bá chủ thế giới Địa Trung Hải. Ông không chỉ chinh phục, mà còn tổ chức; khắp nơi ông đều để lại những đồn trú kiên cường và những thống đốc tài năng. Là người đầu tiên trong lịch sử nhận ra tầm quan trọng của sức mạnh hải quân, ông đã xây dựng một hạm đội giữ chặt Cận Đông trong vòng kiểm soát. Chiến lợi phẩm ông chiếm được trở thành nền tảng cho nghệ thuật Ai Cập trong thời kỳ Đế quốc; những khoản cống nạp từ Syria đã đem lại cho dân chúng một đời sống hưởng thụ tinh tế, và tạo ra một tầng lớp nghệ sĩ mới làm đầy rẫy Ai Cập những sản phẩm quý giá. Ta có thể ước lượng phần nào sự giàu có của chính quyền đế quốc mới khi biết rằng có lần ngân khố đã có thể cân đong tới chín ngàn cân hợp kim vàng bạc. Thương mại ở Thebes phát triển chưa từng thấy; đền đài oằn mình dưới cúng phẩm; và tại Karnak, Đại Lộ và Hội trường Lễ hội nguy nga mọc lên để tôn vinh thần linh và nhà vua. Rồi vị vua lui khỏi chiến trường, thiết kế những chiếc bình tinh xảo, và dành tâm lực cho việc cai trị trong nước. Tể tướng của ông đã nói về ông, như những thư ký mệt mỏi từng nói về Napoleon: “Kìa, Hoàng thượng là người biết hết mọi sự; chẳng có gì ngài không hay; ngài là thần tri thức trong mọi lĩnh vực; chẳng có việc gì mà ngài không thực hiện.” Ông qua đời sau 32 năm (có người nói 54 năm) trị vì, để lại cho Ai Cập một địa vị lãnh đạo hoàn toàn trong thế giới Địa Trung Hải.

Sau ông, một kẻ chinh phục khác, Amenhotep II, lại chinh phạt những kẻ sùng bái tự do ở Syria, và mang về Thebes bảy vị vua bị bắt sống, treo ngược đầu xuống từ mũi thuyền chiến hoàng gia; sáu người trong số đó, ông tự tay hiến tế cho thần Amon. Rồi một Thutmose khác, không đáng kể; và đến năm 1412 TCN, Amenhotep III mở ra một triều đại dài, trong đó sự giàu có tích lũy qua cả thế kỷ bá quyền đã đưa Ai Cập tới đỉnh cao huy hoàng. Một bức tượng bán thân tuyệt mỹ trong Bảo tàng Anh khắc họa ông là con người vừa tinh tế vừa mạnh mẽ, đủ sức giữ vững đế quốc được trao cho mình, và đồng thời sống trong cảnh tiện nghi thanh lịch mà Petronius hay dòng họ Medici cũng phải ghen tị. Chỉ có việc khai quật di vật của Tutankhamon mới khiến ta tin nổi những ghi chép và truyền thuyết về sự xa hoa, giàu có của Amenhotep.

Dưới triều ông, Thebes huy hoàng chẳng kém bất kỳ thành phố nào trong lịch sử. Phố phường đầy ắp thương nhân, chợ búa ngồn ngộn hàng hóa khắp thế giới, công trình “vượt trội về sự tráng lệ hơn tất cả thủ đô xưa và nay,” những cung điện nguy nga tiếp nhận triều cống từ vô số chư hầu, những ngôi đền đồ sộ “khắp nơi đều dát vàng,” được trang điểm bằng mọi loại hình nghệ thuật, những biệt thự rộng lớn, lâu đài xa hoa, những đại lộ rợp bóng và hồ nhân tạo tạo nên bối cảnh cho những màn trình diễn lộng lẫy của thời trang — tất cả như báo trước về La Mã Hoàng đế. Đó chính là thủ đô Ai Cập trong ngày vinh quang, ngay trước khi bước vào suy tàn.

III. NỀN VĂN MINH AI CẬP

1. Nông nghiệp

Đằng sau những vị vua và hoàng hậu kia là những con tốt; đằng sau những đền thờ, cung điện và kim tự tháp kia là những người thợ nơi thành thị và những nông dân trên cánh đồng. Herodotus, khi đến đây khoảng năm 450 TCN, đã mô tả họ với giọng điệu lạc quan:

“Họ thu hoạch hoa màu với ít công sức hơn bất kỳ dân tộc nào khác… bởi họ không phải lao nhọc để cày xới đất, không phải cuốc xới, cũng không cần bất kỳ việc nặng nhọc nào khác như bao người trên thế giới phải làm để có lúa mì. Khi dòng sông (Nile) tự tràn vào, tưới ngập đồng ruộng, rồi rút đi, mỗi người gieo hạt giống trên đất của mình, thả heo vào ruộng; khi đàn heo giẫm nát hạt xuống đất, người nông dân chỉ còn việc chờ đến mùa gặt; rồi… họ thu hoạch.”

Cũng như heo dẫm hạt xuống đất, người Ai Cập còn thuần hóa cả loài khỉ để hái trái trên cây. Chính dòng Nile, ngoài việc tưới tiêu ruộng đồng, trong mỗi mùa lũ còn để lại vô số cá mắc kẹt trong những vũng nước cạn. Ngay cả tấm lưới mà người nông dân dùng để đánh cá ban ngày cũng được chụp lên đầu vào ban đêm, vừa để ngủ, vừa làm màn chống muỗi. Thế nhưng, chính họ lại không phải là những người được hưởng lợi từ ân huệ của dòng sông.

Mỗi thước đất đều thuộc về Pharaon, và kẻ khác chỉ có thể sử dụng nhờ sự “khoan dung” của nhà vua. Mọi người cày cấy đều phải nộp thuế hiện vật hằng năm cho ông: mười hoặc hai mươi phần trăm sản lượng. Những thửa đất rộng lớn khác thuộc về các lãnh chúa phong kiến hoặc giới giàu sang; quy mô của một số điền trang có thể hình dung được khi biết rằng có điền chủ sở hữu đến một nghìn năm trăm con bò. Ngũ cốc, cá và thịt là những thành phần chính trong bữa ăn. Một mảnh tư liệu còn ghi rõ khẩu phần cho học sinh: gồm ba mươi ba loại thịt, bốn mươi tám món nướng, và hai mươi bốn loại đồ uống. Giới giàu uống rượu vang, còn dân nghèo uống bia lúa mạch.

Đời sống người nông dân vô cùng khổ cực. Người “nông dân tự do” tuy không làm nô lệ nhưng vẫn bị tầng lớp trung gian và bọn thu thuế bóc lột, theo nguyên tắc kinh tế xưa như trái đất: vắt kiệt “tất cả những gì có thể vắt được” từ hoa màu. Một người ký lục đương thời đã viết với giọng dửng dưng về đời sống của những kẻ đã nuôi sống cả Ai Cập:

“Ngươi có nhớ hình ảnh người nông dân khi bị thu một phần mười thóc lúa? Sâu bọ đã phá hủy nửa mùa, hà mã ăn hết phần còn lại; chuột bầy khắp đồng, châu chấu đáp xuống, gia súc gặm cỏ, chim chóc rỉa trộm; và nếu người nông dân rời mắt một thoáng khỏi đống thóc, lập tức kẻ trộm đã mang đi. Chưa hết, dây buộc lưỡi cày, cái cuốc đều đã mòn, còn đàn bò thì chết ngay trước luống cày. Lúc ấy, viên ký lục bước ra khỏi thuyền ở bến, đến để thu thuế; theo sau là những lính giữ kho của Nhà Vua với gậy gộc, cùng bọn da đen mang cành cọ, quát: ‘Đi mau, đi!’ Người nông dân không còn gì, lập tức bị quật ngã xuống đất, trói lại, lôi ra bờ kênh và quẳng đầu xuống nước; vợ hắn cũng bị trói, con cái thì bị xiềng xích. Hàng xóm liền bỏ chạy để cứu lấy lúa của mình.”

Dĩ nhiên, đây là một đoạn văn đầy cường điệu văn chương. Song tác giả có thể đã bổ sung rằng người nông dân bất cứ lúc nào cũng có thể bị bắt đi làm sưu dịch: nạo vét kênh mương, xây đường, cày ruộng cho hoàng gia, hoặc kéo đá khổng lồ, dựng đài tưởng niệm, đền thờ, cung điện.

Có lẽ phần đông lao dịch trong ruộng đồng vẫn sống tạm hài lòng, cam chịu cảnh nghèo khổ. Nhưng nhiều người là nô lệ: bị bắt trong chiến tranh hoặc gán nợ. Thậm chí đôi khi có những cuộc săn bắt nô lệ, đàn bà và trẻ con từ xứ ngoài bị bán đấu giá ngay tại Ai Cập. Một phù điêu cổ trong Viện bảo tàng Leyden khắc họa cảnh đoàn dài tù binh châu Á lầm lũi bước vào đất nô lệ: ta vẫn còn thấy họ như còn sống trên phiến đá sinh động ấy, với đôi tay bị trói sau lưng hoặc vòng qua đầu, hoặc bị khóa trong cùm gỗ thô sơ; gương mặt họ trống rỗng, in dấu nỗi tuyệt vọng cuối cùng.

2. Công nghiệp

Thợ mỏ – Thợ thủ công – Công nhân – Kỹ sư – Vận tải – Bưu chính – Thương mại và tài chính – Giới ký lục

Chậm rãi, khi người nông dân nhọc nhằn cày cấy, một lượng thặng dư kinh tế dần hình thành, đủ để nuôi sống giới thợ thủ công và thương nhân. Vì Ai Cập không có khoáng sản, họ phải tìm đến Ả Rập và Nubia. Khoảng cách xa xôi khiến tư nhân không mấy mặn mà, và trong nhiều thế kỷ, việc khai khoáng là độc quyền của nhà nước. Đồng được khai thác với số lượng nhỏ, sắt thì nhập từ người Hittite, vàng được tìm thấy dọc bờ biển phía đông, tại Nubia, và trong mọi kho bạc chư hầu. Diodorus Siculus (56 TCN) miêu tả cảnh thợ mỏ Ai Cập theo đuổi những mạch vàng dưới lòng đất với đèn và cuốc; trẻ con vác quặng nặng trĩu lên mặt đất; đá quặng được giã nhỏ trong cối đá; người già và phụ nữ rửa sạch bùn đất để đãi vàng. Chúng ta không thể biết mức độ phóng đại dân tộc trong đoạn văn nổi tiếng này:

“Các vua Ai Cập tập hợp tù nhân bị kết án, tù binh chiến tranh và những kẻ khác vì bị vu cáo hoặc do cơn giận dữ mà bị tống ngục. Họ—có khi một mình, có khi cùng cả gia đình—bị gửi đến các mỏ vàng, vừa để trừng phạt tội lỗi của kẻ bị kết án, vừa để nhà vua thu được lợi lớn từ sức lao động của họ. Những người khốn khổ ấy chẳng được chăm sóc thân thể, thậm chí không có mảnh vải che thân; bất kỳ ai nhìn thấy cảnh ấy cũng đều thương xót trước nỗi khốn cùng tột độ, bởi không hề có sự khoan dung hay nới lỏng nào cho kẻ bệnh tật, tàn tật, già cả, hay phụ nữ yếu đuối; tất cả đều bị roi vọt bắt phải tiếp tục lao động cho đến khi kiệt sức và chết trong cảnh nô lệ. Vì thế, họ coi tương lai còn đáng sợ hơn hiện tại, và cái chết trở nên đáng ao ước hơn cuộc sống.”

Ngay từ các triều đại sớm, Ai Cập đã biết pha đồng với thiếc để tạo ra đồng thiếc (bronze): trước tiên để rèn vũ khí—kiếm, mũ, khiên; rồi đến công cụ—bánh xe, trục lăn, đòn bẩy, ròng rọc, guồng quay, nêm, máy tiện, vít xoắn, khoan có thể xuyên đá diorite cứng nhất, cưa có thể cắt các phiến đá khổng lồ của quan tài đá. Người thợ Ai Cập còn sản xuất gạch, xi măng, thạch cao; họ tráng men gốm, thổi thủy tinh, và tô điểm chúng bằng màu sắc rực rỡ. Họ là bậc thầy trong nghệ thuật chạm khắc gỗ; làm ra từ thuyền bè, xe cộ, ghế giường, cho đến những cỗ quan tài tinh xảo dường như khẽ mời gọi con người bước vào cái chết.

Từ da thú, họ làm quần áo, bao tên, khiên, ghế ngồi; toàn bộ nghề thuộc da đều được khắc họa trên vách mộ. Con dao cong trong tay người thợ thuộc da khắc trên đó, đến nay vẫn còn dùng trong nghề đóng giày. Từ cây cói papyrus, thợ thủ công Ai Cập chế ra dây thừng, chiếu, dép và giấy. Những người khác phát triển nghệ thuật tráng men, đánh vec-ni, và áp dụng hóa học vào công nghiệp. Lại có những người dệt nên những tấm vải mịn đến mức lịch sử ngành dệt chưa từng thấy: những mẫu vải lanh dệt cách đây bốn ngàn năm, nay dù đã nhuốm màu thời gian, vẫn tinh tế đến nỗi phải dùng kính lúp mới phân biệt được với lụa; so với chúng, vải tốt nhất dệt bằng máy hiện đại lại thô ráp hơn nhiều. Peschel đã nói:

“Nếu so sánh kho tàng kỹ thuật của người Ai Cập với chúng ta, rõ ràng rằng trước khi có máy hơi nước, chúng ta hầu như không vượt trội họ ở bất kỳ phương diện nào.”

Người lao động phần lớn là dân tự do, một phần là nô lệ. Nói chung, mỗi nghề là một giai cấp, giống như Ấn Độ hiện nay, và con trai thường theo nghiệp cha mình. Những cuộc chiến tranh lớn đã mang về hàng ngàn tù binh, làm nền tảng cho các điền trang rộng lớn và những công trình kỹ thuật vĩ đại. Rameses III từng dâng 113.000 nô lệ cho các đền thờ trong triều đại của ông.

Thợ thủ công tự do thường được tập hợp cho một công trình cụ thể dưới quyền một “chánh thợ” hoặc cai quản, người này bán sức lao động của cả nhóm và trả công cho từng người. Một bảng đá phấn ở Bảo tàng Anh chép lại danh sách 43 thợ, ghi rõ lý do vắng mặt của từng người: “ốm”, “cúng tế thần”, hoặc đơn giản chỉ “lười biếng”. Đình công xảy ra thường xuyên. Có lần, vì tiền công bị khất quá lâu, thợ thuyền đã vây hãm ông cai và đe dọa:

“Chúng tôi bị đói khát dồn đến đây; chúng tôi không có áo quần, không có dầu, không có thức ăn. Hãy viết cho Chúa thượng Pharaoh về việc này, và viết cho viên thống đốc cai quản chúng tôi, để họ cho chúng tôi chút gì đó để sống qua ngày.”

Một truyền thuyết Hy Lạp còn kể rằng có lần Ai Cập nổi dậy lớn, nô lệ chiếm được cả một tỉnh, giữ lâu đến mức thời gian đã biến sự chiếm hữu ấy thành quyền hợp pháp. Tuy nhiên, trong các văn khắc Ai Cập không hề có ghi chép nào về cuộc nổi dậy ấy. Điều đáng ngạc nhiên là một nền văn minh đã tàn nhẫn trong việc khai thác lao động như vậy lại biết đến—hoặc lưu lại—rất ít những cuộc cách mạng.

Công trình kỹ thuật – Vận tải – Bưu chính – Thương mại và Tài chính – Giới ký lục

Kỹ thuật xây dựng của Ai Cập vượt xa mọi điều mà người Hy Lạp, người La Mã, hay cả châu Âu trước Cách mạng Công nghiệp từng biết đến; chỉ có thời đại chúng ta mới vượt qua được, và có lẽ nhận định ấy vẫn còn đáng ngờ. Senusret III, chẳng hạn, đã xây một con đê dài 27 dặm để gom nước từ lưu vực Fayum vào hồ Moeris, nhờ đó khai khẩn được 25.000 mẫu đất đầm lầy để trồng trọt, đồng thời tạo nên một hồ chứa khổng lồ phục vụ tưới tiêu.

Những con kênh lớn được đào, có kênh nối từ sông Nile sang Hồng Hải; kỹ thuật hầm kín (caisson) được sử dụng để đào móng, và những khối thạch trụ nặng tới cả ngàn tấn được vận chuyển đi xa. Nếu tin Herodotus, hoặc nhìn vào những công trình tương tự được chạm khắc ở các phù điêu triều đại XVIII, những khối đá khổng lồ ấy được hàng ngàn nô lệ kéo đi trên những dầm gỗ bôi mỡ, và được đưa lên cao nhờ những con đường dốc dài bắt đầu từ xa. Máy móc thì hiếm hoi, bởi vì sức người quá rẻ. Một phù điêu cho ta thấy 800 tay chèo trên 27 con thuyền kéo một chiếc sà lan chở hai cây obelisk. Đây chính là “thiên đường” mà những kẻ lãng mạn ngày nay—muốn đập phá máy móc—có thể mơ màng quay lại.

Những con thuyền dài hơn 30 mét, rộng hơn 15 mét, qua lại trên sông Nile và Hồng Hải, rồi vươn cả ra Địa Trung Hải. Trên bộ, hàng hóa ban đầu được chở bằng sức người, sau đó là lừa, rồi đến ngựa—có lẽ do người Hyksos mang đến Ai Cập; còn lạc đà chỉ xuất hiện vào thời Ptolemaios. Người nghèo thì đi bộ, hoặc chống chiếc thuyền nhỏ của mình; người giàu đi kiệu do nô lệ khiêng, rồi về sau đi chiến xa—mặc dù xe còn thô sơ, toàn bộ trọng lượng dồn hết lên trước trục.

Ai Cập có cả dịch vụ bưu chính thường xuyên; một cuộn giấy cói cổ còn ghi: “Hãy viết thư cho ta bằng người đưa thư.” Tuy nhiên, việc liên lạc không dễ dàng: đường sá hiếm và tồi tệ, ngoại trừ con đường quân sự chạy qua Gaza đến sông Euphrates; hơn nữa, hình dáng quanh co của dòng Nile—con đường lớn nhất của Ai Cập—khiến khoảng cách từ thành phố này đến thành phố khác gần như bị nhân đôi.

Mậu dịch còn khá thô sơ, phần lớn chỉ là đổi chác tại các chợ làng. Ngoại thương phát triển chậm và bị kìm hãm bởi hàng rào thuế quan hiện đại nhất thời bấy giờ; các vương quốc Cận Đông đều tin tưởng sâu sắc vào “nguyên tắc bảo hộ”, bởi thuế quan là trụ cột tài chính của hoàng gia. Tuy vậy, Ai Cập vẫn trở nên giàu có nhờ nhập nguyên liệu thô và xuất khẩu sản phẩm đã qua chế tác. Thương nhân xứ Syria, Crete và Cyprus chen chúc các khu chợ Ai Cập, còn thuyền Phoenicia thì ngược dòng Nile cập bến tấp nập ở Thebes.

Lúc ấy tiền xu chưa xuất hiện; mọi thanh toán—even cả lương cao nhất—đều trả bằng hiện vật: lúa mì, bánh, men, bia, v.v. Thuế được thu bằng sản phẩm, và kho bạc Pharaon không phải là xưởng đúc tiền, mà là những kho chứa đủ ngàn thứ sản vật từ đồng ruộng và xưởng thợ. Sau những trận chinh phạt của Thutmose III, lượng kim loại quý đổ vào nhiều hơn, các thương nhân bắt đầu thanh toán bằng nhẫn hoặc thỏi vàng, được cân đo trong từng giao dịch; nhưng vẫn chưa có đồng tiền có giá trị cố định được nhà nước bảo đảm để tiện trao đổi.

Dù vậy, tín dụng đã phát triển cao; việc chuyển nhượng bằng văn bản thường thay cho đổi chác hay thanh toán. Giới ký lục khắp nơi bận rộn đẩy nhanh công việc bằng các văn bản pháp lý về trao đổi, kế toán và tài chính.

Mọi du khách đến Louvre đều đã thấy bức tượng người ký lục Ai Cập, ngồi xổm, gần như trần truồng, với một cây bút giắt sau tai để thay thế cho cây bút đang cầm trong tay. Ông ta ghi chép công việc, thanh toán, giá cả, chi phí, lãi lỗ; đếm gia súc lúc đưa đi giết mổ, hay lúa mì lúc đem bán; thảo hợp đồng và di chúc, làm cả tờ khai thuế cho chủ mình. Thật sự thì “dưới ánh mặt trời chẳng có gì mới.” Người ký lục chăm chỉ cần mẫn, như một cỗ máy; đủ thông minh để làm việc, nhưng không nguy hiểm. Cuộc sống của ông đơn điệu, nhưng ông tự an ủi bằng cách viết những bài tiểu luận về nỗi cực nhọc của lao động chân tay, và vẻ uy nghi của kẻ có “cơm ăn từ giấy, máu chảy bằng mực.”

3. Chính quyền

Giới quan liêu – Luật pháp – Tể tướng – Pharaon

Với đội ngũ ký lục tạo thành một bộ máy thư lại, Pharaon và các lãnh chúa địa phương duy trì luật pháp và trật tự trong đất nước. Những phiến đá cổ khắc cảnh ký lục đi kiểm kê dân số, hoặc xem xét tờ khai thuế. Nhờ các trụ đo mực nước Nile (Nilometer), quan lại ký lục có thể dự báo mùa gặt và ước tính doanh thu tương lai cho nhà nước; họ phân bổ ngân sách trước cho các bộ phận chính quyền, giám sát công nghiệp và thương mại, và ở một mức nào đó, đã đạt được—ngay từ buổi đầu lịch sử—một nền “kinh tế kế hoạch” do nhà nước điều tiết.

Luật dân sự và hình sự phát triển cao; ngay từ triều đại thứ Năm, luật về tư hữu và thừa kế đã phức tạp và chính xác. Cũng như ngày nay, có “bình đẳng tuyệt đối trước pháp luật”—miễn là hai bên tranh chấp có thế lực và tài sản ngang nhau. Tài liệu pháp lý cổ nhất thế giới—một bản điều trần lưu tại Bảo tàng Anh—ghi lại một vụ án thừa kế rắc rối được trình bày trước tòa. Quan tòa buộc các bên phải trình bày, đáp biện, phản biện… tất cả bằng văn bản chứ không bằng diễn thuyết—so ra còn đáng trọng hơn những màn tranh tụng dài dòng của chúng ta. Khai man bị xử tử.

Có hệ thống tòa án đầy đủ, từ tòa địa phương ở các quận (nome) cho đến tòa tối cao tại Memphis, Thebes hoặc Heliopolis. Tra tấn đôi khi được dùng để “giúp sản sinh ra sự thật”; roi gậy là hình phạt phổ biến, đôi khi còn chặt mũi, tai, tay hoặc lưỡi; hoặc lưu đày ra mỏ, hoặc tử hình bằng bóp cổ, đóng cọc, chém đầu, hoặc thiêu sống; cực hình khủng khiếp nhất là bị ướp xác khi còn sống, để cho muối natron ăn mòn thân thể cho đến chết. Tội phạm thuộc hàng quý tộc được miễn cảnh hành quyết công khai, được phép tự sát—giống như tinh thần samurai Nhật Bản.

Không có dấu hiệu nào cho thấy Ai Cập có một hệ thống cảnh sát; ngay cả quân đội thường trực—vốn ít ỏi do Ai Cập được sa mạc và biển bao bọc che chở—cũng hiếm khi được dùng để giữ trật tự nội bộ. Sự an toàn về tính mạng và tài sản, cũng như tính liên tục của luật pháp và chính quyền, hầu như dựa hoàn toàn vào uy thế của Pharaon, được trường học và tôn giáo duy trì. Ngoài Trung Hoa, không dân tộc nào từng dám đặt niềm tin nhiều đến thế vào kỷ luật tâm lý.

Đó là một chính quyền tổ chức chặt chẽ, với thành tích tồn tại bền bỉ nhất trong lịch sử. Đứng đầu bộ máy hành chính là Tể tướng, người vừa là thủ tướng, vừa là chánh án tối cao, vừa là tổng quản khố; ông là tòa án cuối cùng dưới quyền trực tiếp của Pharaon. Một phù điêu trong mộ cho thấy Tể tướng rời nhà từ sáng sớm để nghe dân nghèo thỉnh cầu, “để nghe,” như bia khắc chép, “những điều dân chúng nói trong yêu cầu của họ, và không phân biệt kẻ nhỏ người lớn.”

Một cuộn giấy cói đặc biệt từ thời Đế quốc (New Kingdom) ghi lại bài diễn từ (có lẽ chỉ là sáng tác văn chương) mà Pharaon dùng để phong chức Tể tướng mới:

“Hãy chăm lo chức vụ Tể tướng; hãy cảnh giác trước mọi việc xảy ra trong đó. Này, đó là trụ cột của cả quốc gia… Chức Tể tướng không ngọt ngào; nó đắng chát. Nó không phải là để lấy lòng các vương công hay nghị sĩ; nó cũng không phải để biến dân chúng thành nô lệ cho riêng mình… Này, khi một kẻ thỉnh cầu đến từ Thượng hoặc Hạ Ai Cập, hãy liệu sao cho mọi việc đều đúng luật, đúng tục lệ, trả cho mỗi người điều thuộc về họ… Thần linh ghê tởm sự thiên vị… Hãy coi kẻ ngươi biết cũng như kẻ ngươi chưa biết; coi kẻ gần vua cũng như kẻ xa cung điện. Này, vị vương công nào làm được điều này thì sẽ còn tồn tại nơi đây… Nỗi sợ hãi dân chúng dành cho một vương công là vì ông thi hành công lý. Đây là điều luật được đặt trên vai ngươi.”

Pharaon chính là tòa án tối cao; bất kỳ vụ việc nào, nếu nguyên đơn đủ sức chịu phí tổn, đều có thể đưa trực tiếp lên ngài. Những hình chạm khắc cổ cho ta thấy “Ngôi Nhà Lớn” nơi ngài trị vì, nơi đặt toàn bộ cơ quan chính quyền; chính từ “Ngôi Nhà Lớn” này—người Ai Cập gọi là Pero, người Do Thái dịch thành Pharaoh—mà tước hiệu hoàng đế xuất hiện. Tại đây, Pharaon điều hành một lịch trình công việc hành chính căng thẳng, đôi khi nghiêm ngặt chẳng khác Chandragupta, Louis XIV hay Napoléon.

Khi đi tuần thú, ngài được các lãnh chúa đón tiếp ở biên giới lãnh địa, hộ tống, khoản đãi, và dâng lễ vật tương xứng với hy vọng của họ. Một bá tước, theo lời khắc tự hào, đã tặng Amenhotep II “xe bằng vàng bạc, tượng ngà voi và gỗ mun, châu báu, vũ khí, và tác phẩm nghệ thuật,” cùng 680 tấm khiên, 140 dao găm đồng, và nhiều bình kim loại quý. Để đáp lại, Pharaon mang một người con trai của lãnh chúa ấy về triều nuôi dạy—một cách khéo léo để giữ con tin cho lòng trung thành.

Các cận thần cao niên hợp thành một Hội đồng Kỳ mục gọi là Saru (“Những Người Vĩ đại”), làm nhiệm vụ cố vấn cho vua. Nhưng sự cố vấn ấy phần nào thừa, bởi Pharaon, với sự hậu thuẫn của giới tư tế, nhận lấy cả nguồn gốc, quyền năng và trí tuệ thần linh; liên minh này với các vị thần chính là bí mật uy thế của ngài. Do đó, cách xưng hô với Pharaon luôn tâng bốc, đôi khi đến mức kỳ lạ, như trong Truyện Sinuhe nơi một thần dân chào ngài: “Ôi vị vua trường sinh, cầu xin Nữ Thần Vàng” (tức nữ thần Hathor) “ban sự sống cho lỗ mũi ngài.”

Xứng với một con người thần thánh như thế, Pharaon được hầu hạ bởi đủ hạng cận thần: tướng lĩnh, thợ giặt, thợ tẩy, quản lý tủ xiêm y, và nhiều quan chức cao quý khác. Hai mươi viên quan chuyên lo việc điểm trang: thợ cạo chỉ được phép cạo râu tóc cho vua, thợ làm tóc điều chỉnh khăn trùm và vương miện, thợ làm móng cắt và đánh bóng móng tay, thợ chế hương khử mùi cơ thể, tô kohl đen cho mí mắt, đánh son đỏ cho má và môi. Một tấm bia mộ còn ghi lời chủ nhân tự xưng: “Giám sát Hộp Phấn, Giám sát Bút Kẻ, Kẻ Mang Dép cho Vua, làm việc về dép cho Vua theo đúng pháp luật của ngài.”

Được nuông chiều như vậy, Pharaon dễ sa đọa, và đôi khi tìm chút hứng thú bằng cách cho những thiếu nữ chỉ mặc lưới thưa chèo thuyền ngự. Chính sự xa hoa của Amenhotep III đã dọn đường cho thảm họa mang tên Ikhnaton.

5. Phong tục tập quán

Tính cách – Trò chơi – Ngoại hình – Mỹ phẩm – Y phục – Trang sức

Nếu ta cố gắng hình dung tính cách người Ai Cập, sẽ khó để phân biệt giữa đạo lý trong văn chương và thực tiễn đời sống. Nhiều khi, những lời khuyên cao đẹp vang lên; như một thi sĩ đã khuyên đồng bào mình:

“Hãy cho kẻ không có ruộng chút bánh ăn,
Và hãy tạo cho mình một danh thơm muôn thuở.”

Một số bậc trưởng lão cũng để lại những lời răn dạy đáng khen cho con cái. Một bản giấy cói lưu giữ ở Bảo tàng Anh, được học giả gọi là Sự khôn ngoan của Amenemope (khoảng năm 950 TCN), chuẩn bị cho một học trò bước vào quan trường, với những lời nhắc nhở có lẽ đã ảnh hưởng đến tác giả (hay nhiều tác giả) của Sách Châm ngôn của Salomon:

“Đừng tham lam một thước đất,
Đừng xâm phạm ranh giới của người góa phụ…
Hãy cày ruộng để ngươi tìm thấy nhu cầu,
Và nhận lấy bánh từ sân đập lúa của chính ngươi.
Tốt hơn một đấu thóc mà Thiên Chúa ban cho ngươi
Hơn năm ngàn do tội lỗi mà có…
Tốt hơn sự nghèo khó ở trong tay Thiên Chúa
Hơn sự giàu sang trong kho lẫm;
Và tốt hơn những ổ bánh với con tim vui vẻ
Hơn của cải trong nỗi buồn.”

Nhưng những áng văn đạo đức ấy cũng không ngăn được lòng tham của con người. Plato mô tả người Athens yêu tri thức, người Ai Cập yêu của cải; có lẽ ông hơi thiên vị dân tộc mình. Nói chung, người Ai Cập chính là “người Mỹ” của thời cổ: say mê sự to lớn, chuộng công trình khổng lồ, chăm chỉ tích lũy, thực tế ngay giữa những tín ngưỡng siêu hình. Họ là những nhà bảo thủ kiên định nhất trong lịch sử: càng đổi thay thì càng giữ nguyên; suốt bốn mươi thế kỷ, nghệ sĩ của họ vẫn sao chép những quy ước cũ một cách ngoan đạo. Qua di tích, ta thấy họ là một dân tộc thực tế, không chuộng những trò vô nghĩa ngoài thần học. Họ không mấy coi trọng mạng sống con người, giết chóc với lương tâm trong sáng như thiên nhiên; binh sĩ Ai Cập chặt bàn tay phải, hoặc bộ phận sinh dục của kẻ địch ngã xuống, đem nộp cho ký lục để ghi công. Ở những triều đại sau, dân chúng, vốn lâu quen với hòa bình trong nước và chỉ biết đến những cuộc chiến xa xôi, đã mất hết tập tính và phẩm chất quân sự, đến mức chỉ vài binh sĩ La Mã cũng đủ chinh phục toàn cõi Ai Cập.

Việc ta biết họ chủ yếu qua mộ táng và bia ký trong đền thờ khiến ta lầm tưởng họ quá nghiêm nghị. Thực ra, qua một số phù điêu, chạm khắc, và cả những chuyện tiếu lâm về các thần linh, ta thấy họ cũng có óc hài hước. Họ chơi nhiều trò, công khai lẫn riêng tư, như cờ bàn, xúc xắc; họ tặng con cái những món đồ chơi giống hệt hiện đại: bi ve, bóng nảy, bowling, con quay; họ thích đấu vật, quyền anh, và cả đấu bò. Trong yến tiệc và vui chơi, họ được xức dầu, kết hoa, uống rượu, nhận quà tặng.

Qua tranh vẽ và tượng, ta hình dung họ là một dân tộc khỏe mạnh, cơ bắp, vai rộng, eo thon, môi dày, bàn chân bẹt vì đi chân trần. Giới quý tộc được khắc họa mảnh mai, cao sang, khuôn mặt trái xoan, trán nghiêng, đường nét đều đặn, mũi dài thẳng, đôi mắt tuyệt đẹp. Da họ khi mới sinh còn trắng (gợi gốc gác Á châu hơn là Phi châu), nhưng nhanh chóng sạm đi dưới nắng Ai Cập; các nghệ sĩ lý tưởng hóa bằng cách vẽ đàn ông da đỏ, đàn bà da vàng; có lẽ đó cũng chỉ là phong cách mỹ phẩm. Người dân thường thì thấp, chắc nịch, như “Sheik-el-Beled”, thân hình vì lao động nặng nhọc và dinh dưỡng kém cân đối mà thô kệch; nét mặt thô, mũi to bè; họ thông minh nhưng thô ráp. Có lẽ, như nhiều nơi khác, giai cấp thống trị và dân thường thuộc hai chủng tộc khác nhau: vua chúa gốc Á, dân chúng gốc Phi. Tóc họ đen, đôi khi xoăn, nhưng không xoăn tít. Phụ nữ cắt tóc ngắn kiểu hiện đại; đàn ông cạo râu cằm và môi, nhưng dùng tóc giả lộng lẫy để thay thế. Để đội tóc giả cho dễ chịu, nhiều người cạo sạch đầu; ngay cả hoàng hậu (như bà Tiy, mẹ của Ikhnaton) cũng cắt hết tóc để đội vương miện dễ dàng. Quy tắc nghiêm ngặt là vua phải có bộ tóc giả lớn nhất.

Tùy theo điều kiện, họ tu sửa tạo hóa bằng mỹ phẩm tinh vi. Mặt được thoa phấn hồng, môi tô son, móng nhuộm màu, tóc và thân thể được xức dầu; ngay cả trong tượng, phụ nữ Ai Cập cũng có đôi mắt kẻ đậm. Người giàu còn mang theo vào mộ bảy loại kem và hai loại son. Di tích còn vô vàn bộ đồ trang điểm: gương, dao cạo, kẹp tóc, trâm cài, lược, hộp phấn, bát muỗng—bằng gỗ, ngà, thạch cao hay đồng, với thiết kế tinh tế. Một số ống mỹ phẩm vẫn còn lưu lại màu bột. Loại kohl mà phụ nữ nay vẫn dùng để kẻ mắt chính là hậu duệ trực tiếp của mỹ phẩm Ai Cập; nó truyền qua người Ả Rập, và từ chữ al-kohl đã sinh ra từ alcohol. Nước hoa đủ loại được dùng cho cơ thể và y phục, nhà cửa thì đốt trầm và nhựa thơm.

Trang phục của họ trải dài từ trần truồng nguyên thủy đến y phục lộng lẫy thời Đế quốc. Trẻ em cả trai lẫn gái, cho đến tuổi thiếu niên, đều trần truồng, chỉ đeo hoa tai và vòng cổ; con gái, tuy nhiên, vẫn tỏ vẻ kín đáo bằng một chuỗi hạt quanh hông. Đầy tớ và nông dân chỉ mặc khố hằng ngày. Dưới thời Cổ vương quốc, nam nữ tự do để ngực trần, chỉ quấn một váy ngắn, bó sát từ thắt lưng xuống đầu gối, bằng vải lanh trắng. Vì sự hổ thẹn là sản phẩm của tập quán hơn là tự nhiên, nên những mảnh vải đơn sơ ấy khiến lương tâm họ thanh thản chẳng khác gì áo lót, áo corset thời Victoria, hoặc lễ phục đàn ông Mỹ ngày nay: “đức hạnh của chúng ta nằm trong cách diễn giải của thời đại.” Ngay cả các tư tế, ở những triều đại đầu, cũng chỉ mặc khố, như thấy trong tượng Ranofer. Khi giàu có tăng lên, y phục cũng nhiều hơn: Trung vương quốc thêm lớp váy ngoài, lớn hơn; Đế quốc thêm áo che ngực, thỉnh thoảng khoác cả áo choàng. Phu xe, gia nhân mặc đồng phục rườm rà, chạy rầm rập mở đường cho chiến xa chủ nhân. Phụ nữ trong thời kỳ phồn vinh bỏ váy bó để mặc áo choàng rộng, vắt qua vai và cài ở dưới ngực phải. Các loại diềm, thêu, và muôn vàn hoa văn xuất hiện; thời trang như con rắn len vào, khuấy động thiên đường của sự trần truồng nguyên thủy.

Cả nam lẫn nữ đều mê trang sức, che cổ, ngực, tay, cổ tay, mắt cá bằng vàng ngọc. Khi quốc gia giàu lên nhờ cống phẩm từ châu Á và buôn bán Địa Trung Hải, trang sức không còn là đặc quyền của quý tộc mà trở thành đam mê của mọi tầng lớp. Mỗi ký lục, thương nhân có một con dấu bạc hoặc vàng; mỗi đàn ông có nhẫn, mỗi phụ nữ có dây chuyền. Những dây chuyền ấy, như thấy trong viện bảo tàng, vô cùng đa dạng: có cái chỉ vài phân, có cái dài đến hơn một mét rưỡi; có cái to nặng, có cái mảnh mai “nhẹ và mềm như ren Venice tinh xảo nhất.” Đến triều đại XVIII, hoa tai trở thành bắt buộc; ai cũng phải xỏ tai, không chỉ gái và phụ nữ, mà cả trai và đàn ông. Cả hai phái đều tự trang hoàng bằng vòng tay, nhẫn, mặt dây, hạt đá quý. Phụ nữ Ai Cập cổ đại, nếu tái sinh hôm nay, cũng chẳng học thêm được gì nhiều từ chúng ta về mỹ phẩm và trang sức.

6. Văn tự

Giáo dục – Trường học chính quyền – Giấy và mực – Các giai đoạn phát triển chữ viết – Các hình thức chữ Ai Cập

Các tư tế dạy kiến thức sơ đẳng cho con cái nhà khá giả tại những trường gắn liền với đền thờ, cũng giống như giáo xứ Công giáo dạy trẻ em ở thời ta. Một thượng tế, người mà ta có thể gọi là Bộ trưởng hoặc Thư ký Giáo dục, đã tự xưng là “Tổng quản Hoàng gia về sự Học tập.” Trong tàn tích một ngôi trường, có lẽ thuộc khu Ramesseum, người ta tìm thấy nhiều mảnh vỏ sò còn ghi lại bài học của thầy xưa. Chức năng của thầy giáo là đào tạo ký lục cho công việc thư lại của nhà nước. Để khích lệ học trò, thầy viết những tiểu luận hùng hồn ca ngợi lợi ích của việc học. Một bản giấy cói dạy: “Hãy trao trái tim ngươi cho tri thức, hãy yêu nó như yêu mẹ, vì không có gì quý giá bằng tri thức.” Một bản khác viết: “Mọi nghề đều có người cai quản; chỉ có người có học mới tự cai quản chính mình.” Một con mọt sách thời sớm viết: “Làm lính là bất hạnh, làm ruộng thì cực nhọc; hạnh phúc duy nhất là hướng lòng đến sách ban ngày và đọc sách ban đêm.”

Những “sách chép bài” từ thời Đế quốc còn tồn tại, vẫn thấy nét sửa lỗi của thầy ở lề trang; số lượng lỗi đủ để an ủi học trò thời nay. Phương pháp chính là đọc chính tả hoặc chép văn bản, viết lên mảnh gốm hoặc mảnh đá vôi. Chủ đề phần lớn mang tính thương mại, bởi người Ai Cập là những nhà thực dụng đầu tiên và lớn nhất; nhưng trọng tâm giáo huấn vẫn là đức hạnh, và vấn đề muôn thuở vẫn là kỷ luật. Một bản chép dạy: “Đừng phí thời gian trong mơ ước, kẻo ngươi sẽ đi đến kết cục tồi tệ. Hãy để miệng ngươi đọc quyển sách trong tay; hãy nghe lời khuyên từ những kẻ biết nhiều hơn ngươi.” Đây có lẽ là một trong những câu cổ xưa nhất của mọi ngôn ngữ. Kỷ luật thì nghiêm khắc, dựa trên nguyên lý đơn giản: “Thanh niên có cái lưng, và nó học khi bị đánh… vì tai của người trẻ nằm trên lưng.” Một học trò viết cho thầy cũ: “Ngài đã đánh lưng tôi, và lời dạy của ngài đã vào tai tôi.” Tuy nhiên, kiểu “huấn luyện thú vật” ấy không phải lúc nào cũng thành công: một bản giấy cói cho thấy một thầy than phiền rằng học trò cũ của mình yêu bia hơn yêu sách.

Dẫu vậy, nhiều học sinh trong đền được chuyển lên các “trường trung học” trực thuộc kho bạc nhà nước. Ở đó, tại ngôi Trường Chính quyền đầu tiên được biết đến, các ký lục trẻ được đào tạo về quản lý công. Sau khi tốt nghiệp, họ được đưa đi tập sự với quan chức, học việc bằng cách làm việc. Có lẽ đó là cách đào tạo công bộc tốt hơn lối tuyển chọn theo sự nổi tiếng, nịnh bợ và tranh cử ồn ào của ta ngày nay. Bằng cách ấy, Ai Cập và Babylon, gần như đồng thời, đã phát triển hệ thống trường học sớm nhất trong lịch sử; phải đến thế kỷ XIX, việc giáo dục công cộng cho trẻ em mới lại được tổ chức tốt như vậy.

Ở cấp cao hơn, học sinh được phép dùng giấy—một trong những mặt hàng thương mại chủ lực của Ai Cập, và cũng là một trong những món quà vĩnh viễn Ai Cập tặng nhân loại. Thân cây papyrus được cắt thành dải, đặt chồng ngang dọc, ép lại, và thế là có giấy—chính là vật liệu (và trò chơi) của văn minh. Cách họ làm giấy tốt đến mức những bản thảo viết cách đây năm ngàn năm vẫn còn nguyên vẹn, đọc được. Những tấm giấy ghép nối bằng cách dán mép phải của tờ này vào mép trái của tờ kia, tạo thành những cuộn dài đến bốn mươi mét; hiếm khi dài hơn, bởi ở Ai Cập không có sử gia dài dòng. Mực, đen và bền, được chế từ nước trộn muội than và nhựa cây, trên bảng gỗ; bút chỉ là một ống sậy, vót đầu thành cây cọ nhỏ.

Với những công cụ hiện đại ấy, người Ai Cập viết nên nền văn học cổ xưa nhất. Ngôn ngữ của họ có lẽ từ châu Á mà đến; những bản ghi sớm nhất cho thấy nhiều mối liên hệ với ngữ hệ Semit. Ban đầu, chữ viết của họ dường như là tượng hình—vật gì thì vẽ hình vật ấy: chẳng hạn, chữ per (nhà) là một hình chữ nhật có cửa. Nhưng khi ý niệm quá trừu tượng không thể vẽ, chữ tượng hình chuyển sang chữ ý niệm: hình được dùng để chỉ ý thay vì chỉ vật; đầu sư tử tượng trưng cho quyền uy (như Nhân sư), con ong vò vẽ tượng trưng hoàng quyền, nòng nọc tượng trưng cho số hàng ngàn.

Tiếp tục phát triển, họ dùng lối chơi chữ: những ý niệm trừu tượng được biểu thị bằng cách vẽ vật có tên phát âm giống với từ cần ghi. Ví dụ: hình cây đàn lute không chỉ có nghĩa “đàn lute” mà còn có nghĩa “tốt,” vì âm nefer (lute) giống âm nofer (tốt). Thế là những câu đố bằng hình (rebus) ra đời, dựa vào từ đồng âm khác nghĩa. Vì động từ “là” trong tiếng Ai Cập phát âm khopiru, nên ký lục, không biết vẽ gì để biểu đạt khái niệm trừu tượng này, đã tách từ thành kho-pi-ru, rồi vẽ cái sàng (khau), cái chiếu (pi), và cái miệng (ru). Tập tục lâu ngày khiến chuỗi hình kỳ cục ấy mang nghĩa “tồn tại.” Từ đó, người Ai Cập tiến đến âm tiết, ký hiệu âm tiết, và bảng âm tiết. Bằng cách chia từ khó thành âm tiết, tìm từ đồng âm, rồi vẽ hình tượng ứng với các âm tiết ấy, họ dần tạo nên một hệ thống ký hiệu có thể diễn đạt hầu như mọi khái niệm.

Chỉ còn một bước nữa—phát minh ra chữ cái. Ban đầu, hình ngôi nhà nghĩa là “nhà”—per; sau đó nó nghĩa là âm per, tức p-r với bất kỳ nguyên âm nào chen giữa, rồi được rút gọn, chỉ còn nghĩa là âm po, pa, pu, pe, pi—tức chữ P. Tương tự, hình bàn tay (dot) thành âm do, da… rồi thành chữ D; hình cái miệng (ro/ru) thành chữ R; hình con rắn (zt) thành Z; hình cái hồ (shy) thành Sh… Kết quả là bảng chữ cái gồm 24 phụ âm, theo chân thương nhân Ai Cập và Phoenicia lan khắp Địa Trung Hải, rồi qua Hy Lạp, La Mã, trở thành một trong những di sản phương Đông quý báu nhất.

Chữ tượng hình đã có từ triều đại sớm nhất; chữ cái xuất hiện lần đầu trên các bia khắc ở mỏ Sinai, niên đại khoảng 2500–1500 TCN.

Dù khôn ngoan hay không, người Ai Cập chưa bao giờ dùng hoàn toàn chữ cái; họ pha trộn tượng hình, ý hình và âm tiết với chữ cái cho đến cuối nền văn minh. Điều này khiến học giả sau này đọc Ai Cập khó khăn, nhưng đối với người Ai Cập thì sự pha trộn ấy có lẽ lại tiện lợi, như một kiểu tốc ký xen lẫn chữ thường. Vì tiếng Anh cũng chẳng đáng làm gương cho chính tả của nó, nên việc học chữ Ai Cập với 500 ký hiệu tượng hình, nghĩa thứ cấp theo âm tiết, nghĩa thứ ba theo chữ cái… chắc cũng không khó hơn việc học chính tả tiếng Anh vòng vèo. Về sau, một dạng chữ viết nhanh và giản lược hơn được phát triển cho văn bản, khác với chữ tượng hình tỉ mỉ trên bia đền; vì do tư tế và ký lục đền tạo ra trước tiên, người Hy Lạp gọi nó là hieratic (chữ thánh), nhưng rồi nó lan ra đời sống dân sự, thương mại, tư nhân. Một dạng chữ còn giản lược và cẩu thả hơn, do dân thường tạo, được gọi là demotic (chữ bình dân). Nhưng trên bia đá, người Ai Cập vẫn khăng khăng khắc tượng hình huy hoàng và tuyệt mỹ—có lẽ là dạng chữ viết ngoạn mục nhất mà con người từng sáng tạo.

7. Văn học

Văn bản và thư viện – Người thủy thủ Sinbad của Ai Cập – Câu chuyện về Sinuhe – Truyện hư cấu – Mảnh tình dang dở – Thơ tình – Lịch sử – Một cuộc cách mạng văn chương

Phần lớn văn học Ai Cập cổ còn lại được viết bằng chữ hành chính (hieratic). Chỉ một phần rất nhỏ tồn tại, và chúng ta buộc phải suy đoán từ những mảnh vụn mà may rủi của thời gian giữ lại; có lẽ thời gian đã phá hủy “Shakespeare của Ai Cập”, chỉ để lại những “thi sĩ cung đình”. Một quan chức lớn của triều đại thứ Tư được ghi trên mộ là “Ký lục của Nhà Sách”; chúng ta không rõ “thư viện nguyên thủy” ấy là kho văn chương hay chỉ là kho bụi bặm chứa hồ sơ công cộng.

Tác phẩm văn học Ai Cập cổ nhất còn tồn tại là những “Văn bản Kim tự tháp”—những dòng tôn giáo khắc trên tường của năm kim tự tháp thuộc triều đại thứ Năm và Sáu. Thư viện đã xuất hiện từ khoảng năm 2000 TCN—những cuộn giấy cói được cuộn lại, cất trong bình, dán nhãn, xếp trên kệ; trong một chiếc bình như thế, người ta tìm thấy bản cổ xưa nhất của câu chuyện Sinbad nhà hàng hải, hay đúng hơn là Robinson Crusoe.

“Câu chuyện về người thủy thủ bị đắm tàu” là một mảnh truyện tự thuật đơn giản, đầy sức sống và cảm xúc. Người thủy thủ xưa nói:

“Thật hạnh phúc biết bao, khi người ta kể lại điều mình đã trải qua sau khi tai ương đã qua đi!”

Rồi ông kể:

“Ta sẽ kể cho ngươi điều ta đã trải nghiệm khi lên đường tới mỏ của Đức Vua, và xuống biển trên một con tàu dài 180 bộ, rộng 60 bộ, với 120 thủy thủ tinh nhuệ của Ai Cập. Họ nhìn trời, nhìn đất, và lòng dũng cảm của họ hơn cả sư tử. Họ đoán trước bão tố trước khi nó đến, biết trước phong ba khi nó còn chưa hiện hình.
Nhưng một cơn bão nổi lên khi ta còn ngoài biển… Gió cuốn chúng ta, dựng lên sóng cao tám thước… Con tàu vỡ tan, và không ai sống sót. Ta bị sóng hất lên một hòn đảo, ba ngày cô độc, chỉ có trái tim ta làm bạn đồng hành. Ta ngủ dưới bóng cây, tận hưởng bóng mát. Rồi ta duỗi chân để tìm cái ăn. Ta tìm thấy sung, nho, và mọi loại tỏi tây ngon. Có cá, có chim, chẳng thiếu thứ gì. Khi đã làm được mồi lửa, ta nhóm lửa và dâng lễ vật thiêu cho các thần.”

Một câu chuyện khác kể về cuộc phiêu lưu của Sinuhe, một quan chức trốn khỏi Ai Cập khi Amenemhet I băng hà. Ông lang thang qua nhiều xứ Cận Đông, hưởng vinh hoa phú quý, nhưng lại đau đớn vì nỗi nhớ quê hương. Cuối cùng, ông từ bỏ của cải, vượt qua nhiều gian khổ để trở về Ai Cập:

“Lạy Thần linh, đấng đã sắp đặt cuộc chạy trốn này, xin đưa con trở lại Nhà (tức Pharaon). Xin cho con được thấy nơi trái tim con hằng hướng về. Còn gì vĩ đại hơn việc thi thể con được chôn trong mảnh đất nơi con sinh ra? Xin trợ giúp con! Xin ban điều lành, xin Thần xót thương con!”

Về sau, ông được trở về, kiệt sức và phủ đầy bụi cát sau nhiều ngày vượt sa mạc, lo sợ Pharaon sẽ trách mắng vì vắng mặt quá lâu ở “quốc gia văn minh duy nhất trên đời”. Nhưng Pharaon tha thứ và tiếp đãi ông bằng mọi nghi thức:

“Ta được đưa vào nhà của một vương tử, với đủ mọi tiện nghi, có cả phòng tắm. Những năm tháng mệt nhọc đã được gột rửa khỏi thân thể ta; ta được cạo râu tóc, được chải chuốt. Gánh bụi bặm trao trả lại cho sa mạc, còn quần áo rách nát thì cho kẻ lữ hành. Ta được mặc lụa là tinh xảo nhất, xức dầu thơm quý nhất.”

Truyện ngắn trong văn học Ai Cập rất phong phú và đa dạng. Có những truyện kỳ diệu về ma quỷ, phép lạ và đủ thứ huyễn hoặc, đáng tin chẳng kém gì những truyện trinh thám làm vừa lòng chính khách hiện đại; có những tiểu thuyết lãng mạn về vương công, công chúa, vua và hoàng hậu, trong đó có bản cổ nhất của câu chuyện Cô bé Lọ Lem—bàn chân tuyệt đẹp, chiếc giày thất lạc, và kết cục hôn nhân vương giả. Có những truyện ngụ ngôn loài vật phản chiếu thói hư tật xấu, đam mê của con người, răn dạy luân lý—một kiểu “tiền thân” của Aesop và La Fontaine.

Điển hình cho sự hòa trộn giữa tự nhiên và siêu nhiên là câu chuyện Anupu và Bitiu: hai anh em sống hạnh phúc trên nông trại cho đến khi vợ Anupu si mê em trai, bị khước từ, bèn trả thù bằng cách tố cáo Bitiu đã cưỡng bức mình. Các thần và cá sấu cứu Bitiu, nhưng ông chán ghét loài người, tự thiến để chứng minh sự trong sạch, rồi ẩn cư trong rừng, giấu trái tim trên bông hoa cao nhất của một cái cây. Thần linh thương xót, ban cho ông một người vợ đẹp đến nỗi chính sông Nile cũng say mê nàng, đánh cắp một lọn tóc. Lọn tóc trôi xuống sông, được Pharaon nhặt được, ngây ngất trước hương thơm, liền sai người tìm nàng. Nàng được đưa về, và trở thành vợ Pharaon. Vua ghen với Bitiu, sai chặt cây nơi trái tim ông ẩn giấu; cây đổ xuống, hoa chạm đất, và Bitiu chết.

Thật ít khi khẩu vị của tổ tiên ta khác với chính chúng ta!

Phần lớn văn học Ai Cập thời kỳ đầu mang tính tôn giáo; và những bài thơ Ai Cập cổ xưa nhất chính là các thánh ca trong Văn bản Kim tự tháp. Hình thức của chúng cũng là hình thức thơ ca cổ xưa nhất mà ta biết—đó là kiểu “song hành,” tức lặp lại ý bằng câu chữ khác nhau—sau này thi sĩ Do Thái vay mượn từ Ai Cập và Babylon, rồi bất tử hóa trong Thánh vịnh.

Khi Cổ vương quốc nhường chỗ cho Trung vương quốc, văn học có xu hướng thế tục và “phàm trần” hơn. Ta thoáng thấy bóng dáng của một nền văn học tình ái đã mất trong một mảnh giấy cói, nhờ sự biếng nhác của một ký lục Trung vương quốc, người đã không xóa sạch bản thảo cũ mà để sót lại khoảng hai mươi lăm dòng. Đoạn văn kể chuyện một mục tử gặp gỡ nữ thần:

“Nữ thần ấy gặp chàng khi chàng đi đến hồ nước, nàng đã trút bỏ y phục và xõa tóc.”

Người mục tử tường thuật thận trọng:

“Khi ta xuống đầm lầy… ta thấy một người phụ nữ, nhưng nàng không giống phàm nhân. Tóc ta dựng ngược khi nhìn mái tóc nàng, vì sắc da nàng sáng lạ thường. Ta sẽ không làm điều nàng nói; nỗi kinh hãi nàng gieo còn ở trong thân thể ta.”

Thơ tình thì phong phú và tuyệt đẹp, nhưng bởi vì phần lớn ca ngợi mối tình giữa anh chị em ruột nên dễ khiến tai hiện đại bàng hoàng hoặc bật cười. Một tập thơ có tên “Những khúc ca tươi vui của người chị mà con tim ngươi yêu, nàng đi dạo trên cánh đồng.” Một mảnh gốm thời triều XIX hoặc XX cất vang giai điệu hiện đại trên cung đàn khát vọng xưa:

“Tình của người yêu ta nhảy nhót trên bờ sông.
Một con cá sấu nằm trong bóng râm;
Nhưng ta vẫn xuống nước, ngược dòng sóng dữ.
Lòng ta tràn dũng khí,
Và nước như đất dưới chân ta.
Chính tình nàng làm ta mạnh mẽ.
Nàng là cuốn bùa chú của ta.
Khi ta thấy nàng đến, lòng ta hân hoan,
Tay ta dang rộng để ôm lấy nàng;
Trái tim ta vui mừng mãi mãi… từ khi nàng đến.
Khi ta ôm nàng, ta như ở chốn Hương Thơm,
Như kẻ mang hương liệu.
Khi ta hôn nàng, môi nàng hé mở,
Và ta say sưa chẳng cần bia rượu.
Giá ta là nàng hầu da đen của nàng,
Để ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của từng tấc thân thể nàng.”

Những câu này được chúng ta chia đoạn tùy tiện; từ hình thức bên ngoài của nguyên bản, không thể biết chúng có phải thơ hay không. Người Ai Cập hiểu rằng nhạc tính và cảm xúc mới là tinh hoa song sinh của thơ ca; nếu có đủ hai điều ấy, hình thức bên ngoài không mấy quan trọng. Dù vậy, nhịp điệu thường được nhấn mạnh bằng lối song hành; đôi khi nhà thơ mở đầu mọi câu bằng cùng một từ; đôi khi lại chơi chữ như kẻ thích đùa, dùng âm giống nhau để diễn đạt nghĩa khác nhau; và rõ ràng thủ pháp điệp âm đã có từ thời Kim tự tháp.

Những hình thức đơn giản ấy là đủ; với chúng, thi sĩ Ai Cập có thể biểu đạt hầu hết mọi sắc thái của tình yêu “lãng mạn”—mà Nietzsche tưởng chỉ do các Troubadour phát minh. Papyrus Harris cho thấy tình cảm ấy có thể do phụ nữ bày tỏ chẳng kém đàn ông:

“Ta là người chị cả của chàng,
Và chàng với ta như khu vườn
Ta đã trồng bằng hoa
Và mọi loại cỏ thơm ngát.
Ta dẫn một con kênh vào đó,
Để chàng nhúng tay khi gió bắc mát rượi thổi qua.
Chốn đẹp nơi ta và chàng dạo bước,
Khi tay chàng trong tay ta,
Với tâm trí đăm chiêu và con tim hoan lạc
Vì ta và chàng cùng nhau bước đi.
Ta ngây ngất khi nghe giọng chàng,
Và đời ta nương vào tiếng chàng.
Mỗi lần ta thấy chàng,
Quý giá hơn cả thức ăn và đồ uống.”

Thật đáng kinh ngạc khi thấy những mảnh vụn văn chương ấy đa dạng đến vậy: thư từ, văn bản pháp lý, ký sự lịch sử, bùa chú, thánh ca, sách mộ đạo, thơ tình và ca khúc chiến tranh, tiểu thuyết lãng mạn, lời khuyên luân lý, trước tác triết học—mọi thứ đều có mặt, trừ anh hùng ca và kịch, dù cũng có thể gượng ép mà nhận ra đôi dấu vết. Câu chuyện về những chiến thắng lẫy lừng của Rameses II, được kiên nhẫn khắc thành từng câu trên từng viên gạch ở cổng đền Luxor, ít nhất cũng là anh hùng ca—về độ dài và sự khô khan. Một văn khắc khác kể Rameses IV từng thủ vai trong một vở kịch: ông bảo vệ Osiris khỏi Set và hồi sinh Osiris. Chúng ta không có đủ hiểu biết để khai triển thêm gợi ý này.

Sử ký, ở Ai Cập, cổ xưa ngang với lịch sử; ngay cả các vua tiền triều đại cũng giữ biên niên sử một cách tự hào. Các sử quan theo hầu Pharaon trong các cuộc viễn chinh, không bao giờ thấy thất bại, chỉ ghi chép hoặc bịa đặt chi tiết về chiến thắng; nghề viết sử sớm đã thành một nghệ thuật “trang điểm.” Từ khoảng năm 2500 TCN, học giả Ai Cập đã lập danh sách các vua, đặt tên cho từng năm, ghi lại sự kiện chính của từng năm và triều đại; đến thời Thutmose III, những văn bản này đã trở thành bộ sử đầy đủ, hừng hực lòng yêu nước.

Các triết gia Trung vương quốc thì cho rằng con người và lịch sử đều đã già nua, tàn tạ, và than khóc cho thời trai tráng của dân tộc. Khekheperre-Sonbu, một học giả triều Senusret II (khoảng 2150 TCN), phàn nàn rằng mọi điều đã được nói từ lâu, chẳng còn gì mới cho văn chương ngoài sự lặp lại:

“Ước chi ta có được những lời chưa từng nghe,
Những phát ngôn và ngôn từ mới mẻ,
Chưa từng qua đi,
Không phải lặp lại điều mà tổ tiên đã nói,
Không phải lời đã cũ kỹ,
Không phải điều cha ông từng nói rồi.”

Khoảng cách thời gian khiến ta khó nhận ra sự phong phú và biến thiên của văn học Ai Cập, cũng như khó phân biệt đặc điểm của những dân tộc xa lạ. Tuy vậy, trong tiến trình dài lâu, văn học Ai Cập cũng trải qua những trào lưu và tâm trạng đa dạng chẳng kém gì văn học châu Âu. Cũng như ở châu Âu, ngôn ngữ nói hàng ngày ở Ai Cập dần dần, rồi hầu như hoàn toàn, tách khỏi ngôn ngữ viết trong sách của Cổ vương quốc. Một thời gian dài, tác giả vẫn sáng tác bằng văn ngữ cổ; học giả phải học nó ở trường, học trò bị bắt dịch “kinh điển” với ngữ pháp, từ vựng, và cả “bản dịch xen dòng.” Nhưng đến thế kỷ XIV TCN, các tác giả Ai Cập vùng lên chống lại xiềng xích truyền thống, và giống như Dante hay Chaucer, họ dám viết bằng ngôn ngữ bình dân. Thánh ca Mặt trời nổi tiếng của Ikhnaton chính là sáng tác bằng tiếng nói dân gian.

Nền văn học mới ấy hiện thực, tươi trẻ, đầy sức sống; nó hân hoan khi thách thức hình thức cũ và mô tả cuộc sống mới. Nhưng theo thời gian, thứ ngôn ngữ ấy cũng trở thành văn chương, trang nhã, chuẩn mực, cứng nhắc với bao quy ước từ ngữ; một lần nữa ngôn ngữ văn chương lại tách khỏi ngôn ngữ nói, và chủ nghĩa kinh viện lên ngôi. Các trường ở Ai Cập thời Saites dành nửa thời gian để học và dịch “kinh điển” thời Ikhnaton.

Những biến đổi tương tự cũng lặp lại dưới thời Hy Lạp, La Mã, Ả Rập; và một lần nữa đang diễn ra hôm nay. Panta rei—mọi sự đều trôi; chỉ có học giả là không đổi thay.

8. Khoa học

Nguồn gốc khoa học Ai Cập – Toán học – Thiên văn và lịch pháp – Giải phẫu và sinh lý – Y học, phẫu thuật và vệ sinh

Giới học giả Ai Cập phần lớn là tư tế, sống xa khỏi ồn ào đời thường, hưởng sự yên ổn và đầy đủ trong đền thờ; chính họ, mặc cho bao tín ngưỡng mê tín, đã đặt nền móng cho khoa học Ai Cập. Theo truyền thuyết, các khoa học được thần Thoth—thần trí tuệ—phát minh vào khoảng năm 18.000 TCN, trong triều đại ba nghìn năm khi ngài còn cai quản trần gian; những cuốn sách cổ nhất của từng ngành đều nằm trong bộ hai mươi nghìn tập sách mà vị thần uyên bác ấy được cho là đã soạn ra. Kiến thức của chúng ta ngày nay không cho phép cải chính nhiều với truyền thuyết này về khởi nguyên khoa học ở Ai Cập.

Ngay từ buổi đầu lịch sử có ghi chép, ta đã thấy toán học phát triển cao. Việc thiết kế và xây dựng Kim tự tháp đòi hỏi độ chính xác không thể đạt được nếu thiếu kiến thức toán học đáng kể. Đời sống Ai Cập gắn liền với sự dâng và rút của sông Nile, nên họ ghi chép cẩn thận mực nước, tính toán chu kỳ; các thầy đo đạc và ký lục thường xuyên đo lại ruộng đất sau khi ranh giới bị xóa nhòa vì lũ lụt. Chính hoạt động đo đất này đã sinh ra hình học. Gần như mọi tác giả cổ đều nhất trí gán phát minh ra hình học cho người Ai Cập. Josephus thì cho rằng Abraham đã mang số học từ xứ Chaldea (Mesopotamia) sang Ai Cập; và cũng không loại trừ khả năng nghệ thuật này cùng những môn khác đã theo chân người Sumer đến Ai Cập.

Ký hiệu số của họ khá rườm rà—một vạch là 1, hai vạch là 2,… chín vạch là 9; rồi một ký hiệu mới cho 10. Hai ký hiệu 10 là 20, ba ký hiệu 10 là 30,… chín ký hiệu 10 là 90; tiếp tục có ký hiệu cho 100, 1000. Ký hiệu cho 1.000.000 là hình một người giơ hai tay lên trời, như thể ngạc nhiên rằng số ấy tồn tại. Người Ai Cập gần chạm tới hệ thập phân nhưng thiếu số 0, và không đạt ý tưởng dùng mười chữ số cho mọi số; ví dụ: để viết 999 họ dùng tới 27 ký hiệu. Họ có phân số, nhưng tử số luôn là 1; để viết ¾, họ ghi ½ + ¼. Bảng nhân chia đã có từ thời Kim tự tháp. Bản toán học cổ nhất còn lại là Papyrus Ahmes (2000–1700 TCN), vốn tham chiếu tới các văn bản toán học xưa hơn 500 năm nữa. Nó minh họa cách tính thể tích kho lúa, diện tích ruộng, và cả phương trình bậc nhất. Hình học Ai Cập đo được diện tích vuông, tròn, khối lập phương, thể tích hình trụ, hình cầu; và họ đã tìm ra số π bằng 3,16. Chúng ta tự hào rằng sau bốn nghìn năm đã nâng nó lên 3,1416.

Về vật lý và hóa học Ai Cập, ta không biết gì cả; về thiên văn cũng chẳng nhiều hơn. Các thầy chiêm tinh trong đền tưởng tượng trái đất như một chiếc hộp chữ nhật, bốn góc có núi chống trời. Họ không ghi nhật thực, nguyệt thực, và nhìn chung kém xa người Mesopotamia. Tuy nhiên, họ biết dự báo ngày sông Nile dâng, và xoay hướng đền thờ về đúng điểm mặt trời mọc trong ngày hạ chí. Có lẽ họ biết nhiều hơn nhưng không muốn tiết lộ cho đám dân mê tín, vì các tư tế coi thiên văn là khoa học bí truyền. Suốt bao thế kỷ, họ ghi lại vị trí và chuyển động của các hành tinh, cho tới khi hồ sơ trải dài cả ngàn năm. Họ phân biệt hành tinh và sao cố định, ghi chép sao cấp 5 (gần như không thấy bằng mắt thường), và vẽ bản đồ ảnh hưởng tinh tú lên vận mệnh con người. Từ những quan sát ấy, họ xây dựng nên lịch pháp—một trong những món quà vĩ đại nhất của Ai Cập cho nhân loại.

Họ chia năm thành ba mùa, mỗi mùa bốn tháng: thứ nhất là mùa dâng, tràn và rút của sông Nile; thứ hai là mùa gieo trồng; thứ ba là mùa gặt hái. Mỗi tháng tính 30 ngày, gần bằng tháng âm lịch 29,5 ngày; chữ “tháng” của họ, như của ta, bắt nguồn từ ký hiệu “mặt trăng.” Cuối tháng thứ mười hai, họ thêm năm ngày để đưa năm về đúng với mặt trời và dòng sông. Họ chọn ngày đầu năm là lúc sông Nile đạt đỉnh, và cũng là lúc ngôi sao Sirius (gọi là Sothis) mọc cùng mặt trời. Vì năm của họ chỉ có 365 ngày thay vì 365 ¼, nên hiện tượng “heliacal rising” của Sirius (mọc ngay trước bình minh, sau nhiều ngày biến mất) dần dần trễ đi một ngày mỗi bốn năm. Thế là lịch Ai Cập lệch sáu giờ mỗi năm so với thực tế thiên văn, và họ không bao giờ chỉnh sửa lỗi ấy.

Mãi đến năm 46 TCN, các nhà thiên văn Hy Lạp ở Alexandria, theo lệnh Julius Caesar, mới cải tiến bằng cách thêm một ngày bốn năm một lần—tức Lịch Julius. Đến năm 1582, Giáo hoàng Gregory XIII lại điều chỉnh chính xác hơn bằng cách bỏ ngày nhuận (29/2) ở những năm tròn thế kỷ không chia hết cho 400; đó chính là Lịch Gregory mà chúng ta dùng ngày nay. Nói cách khác, lịch hiện đại của chúng ta bắt nguồn từ chính nền văn minh Cận Đông cổ đại.

Mặc dù có nhiều cơ hội để nghiên cứu cơ thể người nhờ việc ướp xác, người Ai Cập lại tiến bộ khá ít trong ngành giải phẫu. Họ cho rằng mạch máu mang không khí, nước và các chất thải; họ tin tim và ruột là chỗ ngự của tâm trí. Có lẽ nếu ta hiểu rõ ý niệm của họ về những thuật ngữ ấy, ta sẽ thấy chúng cũng chẳng khác xa những “chân lý mong manh” mà ta nắm giữ ngày nay. Họ mô tả tương đối chính xác các xương lớn và nội tạng, và đã nhận ra chức năng của trái tim như động lực của cơ thể, trung tâm của hệ tuần hoàn: “Các mạch máu,” bản Papyrus Ebers nói, “dẫn đến mọi chi thể; bác sĩ đặt ngón tay lên trán, lên sau đầu, lên tay… hay lên chân, đâu đâu cũng gặp trái tim.” Từ đó đến Leonardo và Harvey chỉ còn một bước—một bước mất đến ba nghìn năm.

Vinh quang của khoa học Ai Cập là y học. Cũng như hầu hết các lĩnh vực khác trong đời sống văn hóa Ai Cập, nó bắt đầu với giới tư tế, đẫm màu sắc huyền thuật. Trong dân gian, bùa ngải được ưa chuộng hơn thuốc viên, vì họ coi bệnh tật là do ma quỷ ám nhập và phải trừ bằng thần chú. Một cơn cảm lạnh, chẳng hạn, có thể được “đuổi đi” bằng câu thần chú:

“Hỡi cơn lạnh, con của lạnh,
Kẻ bẻ gãy xương, phá hủy sọ,
Gây bệnh cho bảy lỗ trên đầu,
Hãy đi ra khỏi thân thể!
Ra sàn nhà! Hôi thối! Hôi thối! Hôi thối!”

—một phương thuốc có lẽ cũng hiệu quả chẳng kém gì nhiều phương thuốc hiện đại cho căn bệnh muôn đời ấy.

Từ nền tảng mê tín này, Ai Cập vươn lên những danh y, bác sĩ phẫu thuật và chuyên khoa vĩ đại, những người đã xây dựng một bộ quy tắc đạo đức được truyền lại trong Lời thề Hippocrates. Một số chuyên khoa sản hoặc phụ khoa, một số chuyên trị bệnh dạ dày, một số là nhãn khoa nổi tiếng đến mức Cyrus (vua Ba Tư) phải mời một thầy thuốc Ai Cập sang chữa bệnh. Thầy thuốc đa khoa thì lo chạy chữa cho dân nghèo, đồng thời còn phải cung cấp mỹ phẩm, thuốc nhuộm tóc, chăm sóc da, dưỡng chân tay, và cả thuốc diệt bọ chét.

Nhiều bản giấy cói y học còn tồn tại. Giá trị nhất là Papyrus Edwin Smith, cuộn dài 4,5 mét, có niên đại khoảng 1600 TCN nhưng dựa vào các tài liệu cổ xưa hơn nhiều; ngay cả ở dạng hiện còn, nó là văn bản khoa học lâu đời nhất của nhân loại. Tài liệu này mô tả 48 ca phẫu thuật lâm sàng, từ vỡ sọ đến tổn thương cột sống. Mỗi ca được trình bày theo trật tự hợp lý: chẩn đoán tạm thời, khám xét, phân tích triệu chứng, chẩn đoán chính thức, tiên lượng, điều trị, và chú giải thuật ngữ. Tác giả nhận xét rõ ràng đến mức phải đến thế kỷ XVIII mới có ai đạt được: rằng sự điều khiển chi dưới nằm ở não—từ “não” xuất hiện lần đầu trong văn học ở đây.

Người Ai Cập mắc đủ loại bệnh tật, dù họ chết vì chúng mà không hề biết tên Hy Lạp của chúng. Xác ướp và giấy cói kể về lao xương sống, xơ cứng động mạch, sỏi mật, đậu mùa, bại liệt trẻ em, thiếu máu, viêm khớp dạng thấp, động kinh, gút, viêm xương chũm, viêm ruột thừa, và cả những chứng kỳ lạ như spondylitis deformansachondroplasia. Không có dấu hiệu của giang mai hay ung thư; nhưng bệnh nha chu và sâu răng—không thấy ở các xác ướp cổ nhất—trở nên phổ biến ở giai đoạn sau, cho thấy “sự tiến bộ” của văn minh. Hiện tượng teo và dính xương ngón chân út, vốn hay bị đổ lỗi cho giày hiện đại, lại phổ biến ở Ai Cập cổ, nơi hầu như mọi người, mọi lứa tuổi đều đi chân trần.

Để chống lại bệnh tật, thầy thuốc Ai Cập có trong tay một dược điển phong phú. Papyrus Ebers liệt kê 700 phương thuốc, từ trị rắn cắn đến sốt hậu sản. Papyrus Kahun (khoảng 1850 TCN) còn kê cả thuốc đặt hậu môn, có vẻ dùng để tránh thai. Mộ một hoàng hậu triều XI phát hiện ra hộp thuốc với lọ, muỗng, dược liệu và rễ cây. Đơn thuốc lơ lửng giữa y học và ma thuật, phần nhiều dựa vào tính ghê tởm của hỗn hợp để tạo hiệu quả: máu thằn lằn, tai và răng heo, thịt và mỡ thối, óc rùa, một cuốn sách cũ nấu trong dầu, sữa sản phụ, nước tiểu phụ nữ trinh, phân người, lừa, chó, sư tử, mèo và cả chí… tất cả đều có mặt trong toa thuốc. Hói đầu được chữa bằng cách xoa mỡ động vật lên đầu. Một số phương thuốc này đi từ Ai Cập sang Hy Lạp, rồi sang La Mã, và cuối cùng đến chúng ta; ngày nay ta vẫn uống những hỗn hợp kỳ lạ vốn đã được pha chế bên bờ sông Nile bốn nghìn năm trước.

Người Ai Cập cũng cố gắng thúc đẩy sức khỏe bằng vệ sinh công cộng, bằng việc cắt bao quy đầu cho nam giới, và dạy dân thường xuyên dùng thuốc xổ. Diodorus Siculus cho biết:

“Để ngăn ngừa bệnh tật, họ chăm sóc cơ thể bằng cách uống thuốc xổ, nhịn ăn và gây nôn; có khi hằng ngày, có khi cách ba bốn ngày. Vì họ nói rằng phần lớn thực phẩm đưa vào cơ thể là dư thừa, và chính từ phần dư thừa ấy mà sinh bệnh.”

Pliny thì tin rằng thói quen dùng thuốc xổ ấy được người Ai Cập học từ loài chim ibis, vốn dùng chiếc mỏ dài như một ống bơm để chống lại chứng táo bón do thức ăn gây ra. Herodotus thì kể rằng người Ai Cập “tẩy ruột mỗi tháng ba ngày liên tiếp, để giữ sức khỏe bằng cách gây nôn và xổ; vì họ cho rằng mọi bệnh tật của con người đều từ thức ăn mà ra.” Và nhà sử học vĩ đại đầu tiên của văn minh đã xếp người Ai Cập là “dân tộc khỏe mạnh nhất thế giới, chỉ sau người Libya.”

9. Nghệ thuật

Kiến trúc – Điêu khắc thời Cổ vương quốc, Trung vương quốc, Đế quốc và Saïte – Phù điêu – Hội họa – Tiểu nghệ thuật – Âm nhạc – Nghệ sĩ

Yếu tố vĩ đại nhất của nền văn minh này chính là nghệ thuật. Ngay gần ngưỡng cửa của lịch sử, ta đã bắt gặp một nền nghệ thuật hùng mạnh và chín muồi, vượt trội so với bất kỳ dân tộc hiện đại nào, chỉ có Hy Lạp mới có thể sánh ngang. Ban đầu, đó là thành quả xa hoa của sự biệt lập và hòa bình; rồi dưới triều Thutmose III và Rameses II, chiến lợi phẩm từ áp bức và chiến tranh đã đem đến cho Ai Cập cơ hội và phương tiện để dựng nên những công trình kiến trúc vĩ đại, tượng đài cứng cáp, cùng hàng trăm ngành nghệ thuật phụ đạt đến sự hoàn hảo ngay từ rất sớm. Toàn bộ lý thuyết về “tiến bộ” phải chùn bước trước nghệ thuật Ai Cập.

Kiến trúc được coi là nghệ thuật cao quý nhất thời cổ đại, vì nó kết hợp trong hình khối uy nghi cả sự đồ sộ và trường tồn, cái đẹp và tính hữu dụng. Nó khởi đầu khiêm nhường với việc trang trí mộ phần và ngoại thất nhà cửa. Nhà ở chủ yếu bằng bùn, thỉnh thoảng có vài chi tiết gỗ khéo léo (như khung cửa kiểu Nhật, hay cánh cổng chạm trổ tinh xảo), mái nhà chống đỡ bằng thân cây cọ vừa chắc vừa dẻo. Chung quanh thường có tường bao và sân; từ sân bước lên mái, từ mái mới vào các phòng. Nhà khá giả thì có vườn riêng được chăm chút; thành phố cũng xây vườn công cộng cho dân nghèo; hầu như nhà nào cũng có vài khóm hoa. Bên trong, tường treo chiếu màu, sàn thì trải thảm nếu chủ nhân đủ giàu. Người ta ngồi trên thảm hơn là ghế; người Ai Cập Cổ vương quốc ăn bữa ngồi xổm bên chiếc bàn cao sáu tấc, giống phong cách Nhật Bản; họ ăn bằng tay, như Shakespeare. Đến thời Đế quốc, khi nô lệ rẻ mạt, tầng lớp trên ngồi trên ghế cao có nệm, và được gia nhân dâng từng món ăn.

Đá quá đắt đỏ cho nhà ở; nó là xa xỉ phẩm chỉ dành cho đền thờ và hoàng gia. Ngay cả giới quý tộc, dẫu tham vọng, cũng nhường vật liệu tốt nhất và giàu có nhất cho đền thờ. Hậu quả là những cung điện từng phủ bóng ven sông dưới triều Amenhotep III đều tan vào quên lãng, trong khi đền thần và mộ phần vẫn tồn tại. Từ triều đại XII, kim tự tháp không còn là hình thức mộ phổ biến. Khnumhotep (khoảng 2180 TCN) chọn kiểu hành lang cột trầm mặc dựng vào sườn núi ở Beni-Hasan; từ đó, mô-típ này được biến hóa muôn hình trên sườn tây sông Nile. Từ Kim tự tháp đến đền Hathor ở Denderah—suốt ba nghìn năm—Ai Cập đã sản sinh một chuỗi thành tựu kiến trúc chưa nền văn minh nào vượt qua.

Ở Karnak và Luxor là rừng cột của Thutmose I, Thutmose III, Amenhotep III, Seti I, Rameses II và các vua từ triều XII đến XXII; ở Medinet-Habu (khoảng 1300 TCN) là công trình mênh mông nhưng kém tinh xảo, từng là nền của một làng Ả Rập nhiều thế kỷ; ở Abydos là đền Seti I, u ám nặng nề trong đổ nát; ở Elephantine là đền nhỏ Khnum (khoảng 1400 TCN), “mang phong thái Hy Lạp trong sự chuẩn xác và thanh nhã”; ở Der-el-Bahri là hành lang trang nghiêm của Nữ hoàng Hatshepsut; gần đó là Ramesseum—một rừng cột và tượng khổng lồ do kiến trúc sư và nô lệ Rameses II dựng nên; ở Philæ là ngôi đền duyên dáng thờ Isis (khoảng 240 TCN), nay hoang phế vì nền cột đã chìm dưới đập Assuan. Đây chỉ là vài mảnh vụn trong số vô vàn công trình vẫn còn tô điểm thung lũng sông Nile, chứng thực sức mạnh và lòng quả cảm của dân tộc đã xây dựng chúng. Ở đây, có lẽ là sự dư thừa cột, một sự chen chúc để chống lại bạo lực của mặt trời, một cảm quan phương Đông dị ứng với đối xứng, một thiếu nhất quán, một kiểu tôn thờ kích thước mang tính bán man rợ hiện đại. Nhưng ở đây cũng có sự hùng vĩ, tráng lệ, uy nghi và quyền lực; ở đây là vòm và mái cong, dùng ít vì chưa cần, nhưng sẵn sàng truyền nguyên tắc cho Hy Lạp, La Mã và châu Âu hiện đại; ở đây là họa tiết trang trí chưa từng bị vượt qua; ở đây là những cột hình papyrus, cột hoa sen, cột “tiền-Doric”, cột Caryatid, đầu cột Hathor, đầu cột hình cọ, cửa sổ lấy sáng, và dầm ngang tuyệt mỹ—tất cả đều mang trong mình sức mạnh và sự vững bền, chính là linh hồn tạo nên sức hấp dẫn của kiến trúc. Người Ai Cập xứng đáng được gọi là những nhà xây dựng vĩ đại nhất lịch sử.

Có người còn cho rằng họ cũng là những nhà điêu khắc vĩ đại nhất. Ngay từ đầu ta đã có tượng Nhân sư, thể hiện phẩm chất sư tử của một vị Pharaoh hùng mạnh—có lẽ là Khafre-Chephren; nó không chỉ có kích thước, mà còn có thần thái. Đại bác của người Mamluk đã phá mũi, chém mất râu, nhưng nét mặt khổng lồ ấy vẫn khắc họa tài tình sức mạnh và phẩm giá, sự điềm tĩnh và hoài nghi từng trải của một vị vua bẩm sinh. Trên gương mặt bất động ấy, một nụ cười kín đáo đã lơ lửng suốt năm nghìn năm, như thể người nghệ sĩ hay vị quân vương vô danh kia đã hiểu tất cả những gì con người sẽ từng hiểu về chính mình. Đó là một “Mona Lisa bằng đá”.

Không có gì sánh kịp trong lịch sử điêu khắc với pho tượng diorit của Khafre ở Bảo tàng Cairo; nó cổ xưa với Praxiteles như Praxiteles cổ xưa với chúng ta, nhưng sau năm mươi thế kỷ vẫn gần như nguyên vẹn trước thử thách của thời gian. Được tạc bằng loại đá cứng nhất, nó truyền lại trọn vẹn cho chúng ta sức mạnh và uy quyền, ý chí và lòng dũng cảm, sự nhạy bén và trí tuệ của vị vua (hay của nghệ sĩ). Gần đó, cổ hơn nữa, Pharaoh Zoser ngồi trên đá vôi với dáng mặt cau có; xa hơn, ánh lửa của người hướng dẫn cho thấy độ trong suốt của tượng alabaster Menkaure.

Đẹp không kém những chân dung vương giả ấy là tượng Sheik-el-Beled và tượng Người ký lục. Hình ảnh Người ký lục tồn tại với nhiều biến thể, niên đại không chắc; nổi tiếng nhất là tượng Người ký lục ngồi xổm ở Louvre. Sheik thì không phải là sheik, mà chỉ là một cai thợ, cầm gậy quyền, bước tới như đang chỉ huy. Tên thật có lẽ là Kaapiru; nhưng những công nhân Ả Rập khai quật mộ ông ở Sakkara, thấy ông giống hệt viên “trưởng làng” mà họ biết, bèn đặt cho ông biệt danh ấy, và từ đó tên gọi này gắn liền với ông. Ông chỉ được tạc bằng gỗ phàm tục, nhưng thời gian chẳng làm hao mòn nhiều dáng người đẫy đà, đôi chân mập mạp. Vòng bụng ông có đủ bề ngang của mọi tay trưởng giả an nhàn trong lịch sử; gương mặt tròn trĩnh ánh lên sự mãn nguyện của kẻ biết rõ vị trí của mình và tự hào vì nó. Cái đầu hói và tấm áo thả lỏng hờ hững phơi bày chủ nghĩa hiện thực của một nghệ thuật đã đủ già để phản kháng sự lý tưởng hóa; nhưng ở đây cũng có sự giản dị tinh tế, một nhân tính trọn vẹn, được thể hiện không cay đắng, mà bằng sự thoải mái và thanh nhã của bàn tay thành thục, tự tin. Maspero viết: “Nếu một cuộc triển lãm kiệt tác thế giới được khai mạc, ta sẽ chọn tác phẩm này để giữ vững vinh quang của nghệ thuật Ai Cập.” —hay có lẽ vinh quang ấy nằm chắc chắn hơn trên đầu Khafre?

Đây là những kiệt tác của điêu khắc Cổ vương quốc. Nhưng còn biết bao tác phẩm nhỏ hơn mà vẫn tuyệt mỹ: tượng chân dung ngồi của Rahotep và vợ là Nofrit, hình khối mạnh mẽ của tư tế Ranofer, tượng đồng vua Phiops và con trai, đầu chim ưng bằng vàng, những hình tượng hài hước như người thợ nấu bia và chú lùn Knemhotep—tất cả (trừ một) đều nằm trong Bảo tàng Cairo, và tất cả đều tràn đầy cá tính.

Dĩ nhiên, những tác phẩm sớm nhất thì thô sơ; và theo một quy ước kỳ lạ chạy xuyên suốt nghệ thuật Ai Cập, hình người thường được tạc với thân và mắt nhìn thẳng, nhưng tay và chân lại theo nghiêng. Cơ thể ít được chú trọng, thường bị rập khuôn và thiếu thực; tất cả thân hình phụ nữ đều trẻ, thân hình vương giả thì đều khỏe mạnh. Sự cá biệt hóa tuy tài tình nhưng thường chỉ dành cho phần đầu. Thế nhưng, bất chấp sự gò bó và lặp lại do quy chuẩn tôn giáo và sự kiểm soát của giới tư tế áp đặt lên tượng, tranh và phù điêu, những tác phẩm này vẫn được cứu chuộc bởi sức mạnh và chiều sâu của tư tưởng, bởi sự mạnh mẽ và chính xác trong thi công, bởi đường nét và độ hoàn thiện. Chưa bao giờ điêu khắc sống động đến vậy: vị Sheik toát ra uy quyền, người phụ nữ xay ngũ cốc dồn hết giác quan và cơ bắp vào công việc, người ký lục thì như sắp viết ngay trên tay. Và hàng ngàn tượng nhỏ chôn theo trong mộ để tiếp tục lao động phục vụ người chết cũng được nặn với cùng sinh khí, đến mức ta có thể tin, như người Ai Cập sùng tín, rằng người quá cố sẽ không thể nào bất hạnh khi còn có những người hầu hạ ấy.

Trong nhiều thế kỷ, điêu khắc Ai Cập không còn sánh được với thành tựu của các triều đại đầu tiên. Bởi phần lớn tượng được làm cho đền thờ hoặc mộ phần, nên các thầy tu chi phối mạnh mẽ hình thức mà nghệ sĩ phải theo; tính bảo thủ cố hữu của tôn giáo dần dần len vào nghệ thuật, bóp nghẹt điêu khắc thành một sự thoái hóa theo khuôn phép. Dưới thời các bạo chúa triều đại XII, tinh thần thế tục lại trỗi dậy, và nghệ thuật hồi sinh phần nào sức mạnh cũ, thậm chí còn đạt tay nghề hơn xưa. Một bức đầu Amenemhet III bằng diorit đen cho thấy rõ rệt sự trở lại của cá tính và nghệ thuật: đó là vẻ cứng rắn điềm tĩnh của một vị vua tài năng, được chạm khắc bằng bàn tay bậc thầy. Một tượng khổng lồ Senusret III với đầu và gương mặt có thể sánh ngang bất kỳ chân dung nào trong lịch sử điêu khắc; và phần thân gãy của Senusret I trong Bảo tàng Cairo được xếp ngang hàng với thân tượng Hercules trong Louvre. Hình tượng động vật xuất hiện dày đặc trong điêu khắc Ai Cập ở mọi thời, luôn tràn đầy sự hài hước và sức sống: một con chuột gặm hạt, một con khỉ gảy đàn harp, một con nhím với từng chiếc gai dựng đứng. Rồi đến thời các vua chăn chiên (Hyksos), trong ba trăm năm, nghệ thuật Ai Cập gần như tắt lịm.

Đến thời Hatshepsut, các vua Thutmose, Amenhotep và Rameses, nghệ thuật dọc sông Nile lại hồi sinh lần thứ hai. Của cải chảy vào từ Syria bị trị, được đưa vào đền đài và triều đình, rồi rỉ xuống nuôi dưỡng mọi ngành nghệ thuật. Tượng khổng lồ của Thutmose III và Rameses II bắt đầu thách thức bầu trời; tượng tràn ngập mọi góc đền; kiệt tác được tung ra với một sự phong phú chưa từng thấy, bởi một dân tộc ngây ngất với cái mà họ tưởng là bá quyền thế giới. Bức tượng bán thân bằng đá granite của Nữ hoàng vĩ đại tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan (New York); tượng bazan Thutmose III ở Bảo tàng Cairo; nhân sư sư tử Amenhotep III ở Bảo tàng Anh; tượng đá vôi Ikhnaton ngồi tại Louvre; tượng granite Rameses II ở Turin; tượng Rameses II trong tư thế quỳ dâng lễ—tuyệt hảo về sự cân xứng; con bò trầm ngâm ở Der-el-Bahri mà Maspero cho rằng “ngang ngửa, thậm chí vượt trội so với thành tựu của Hy Lạp và La Mã trong thể loại này”; đôi sư tử Amenhotep III mà Ruskin đánh giá là tượng động vật đẹp nhất còn sót lại từ cổ đại; tượng khổng lồ tạc vào vách đá ở Abu Simbel dưới tay thợ Rameses II; những hiện vật kỳ diệu trong xưởng của nghệ sĩ Thutmose tại Tell-el-Amarna—mẫu thạch cao đầu Ikhnaton, đầy chất thơ huyền bí của vị vua bi kịch, tượng bán thân đá vôi tuyệt mỹ của Hoàng hậu Nofretete, và thậm chí còn tinh tế hơn, chiếc đầu bằng sa thạch của chính mỹ nhân ấy: tất cả minh chứng thành tựu điêu khắc rực rỡ của thời kỳ Đế quốc. Giữa những kiệt tác này, chất hài hước vẫn chen vào; các nhà điêu khắc Ai Cập tinh nghịch tạo ra những bức biếm họa vui nhộn về người và thú, và ngay cả vua chúa, trong thời kỳ bài trừ ngẫu tượng của Ikhnaton, cũng được khắc họa với nụ cười và trò chơi.

Sau Rameses II, vẻ huy hoàng ấy nhanh chóng tan biến. Suốt nhiều thế kỷ, nghệ thuật chỉ lặp lại các mẫu hình truyền thống. Dưới các vua Saïte, nghệ thuật tìm cách hồi sinh bằng cách quay lại sự giản dị và chân thành của các bậc thầy Cổ vương quốc. Các nhà điêu khắc dũng cảm thử sức với những loại đá cứng nhất—bazan, breccia, serpentine, diorit—và chạm khắc thành những chân dung hiện thực như tượng Montumihait, hay chiếc đầu bazan xanh của một người hói vô danh, nay còn nhìn ra từ tường Bảo tàng Quốc gia Berlin. Họ đúc bằng đồng tượng tuyệt đẹp của nữ nhân Tekoschet. Họ lại vui thú khi nắm bắt nét mặt và động tác thực của người và thú; họ nặn những hình hài con vật ngộ nghĩnh, nô lệ, thần thánh; và họ tạo ra tượng đồng con mèo, cái đầu dê—nay thuộc bộ sưu tập Berlin. Rồi quân Ba Tư kéo đến như bầy sói, chinh phục Ai Cập, xúc phạm đền đài, bẻ gãy tinh thần, và kết thúc nghệ thuật nơi đây.

Đó—kiến trúc và điêu khắc—là hai ngành nghệ thuật chính của Ai Cập. Nhưng nếu tính về sự phong phú, thì phù điêu cũng phải được xếp ngang. Chưa từng có dân tộc nào khắc chép lịch sử và huyền thoại của mình lên tường nhiều như thế. Ban đầu, ta bị choáng ngợp bởi sự đơn điệu nhàm chán của các câu chuyện bằng hình chạm, sự chen chúc hỗn loạn, sự thiếu cân đối và phối cảnh—hoặc là những nỗ lực vụng về nhằm tạo phối cảnh bằng cách khắc cảnh xa ở trên cao so với cảnh gần; ta ngạc nhiên khi thấy Pharaoh cao lớn, còn kẻ thù thì bé nhỏ; và giống như ở điêu khắc, ta khó mà quen được cách vẽ mắt và ngực nhìn thẳng, trong khi mũi, cằm, bàn chân lại quay ngang. Nhưng rồi ta lại bị cuốn hút bởi đường nét và vẻ duyên dáng hoàn hảo của hình chim ưng và rắn trên mộ vua Wenephes, bởi những phù điêu đá vôi vua Zoser trên Kim tự tháp bậc ở Sakkara, bởi bức phù điêu gỗ mộ hoàng tử Hesiré cũng tại đó, và bởi hình chiến binh Libya bị thương trong ngôi mộ triều đại V ở Abusir—một nghiên cứu kiên nhẫn về cơ bắp căng thẳng trong cơn đau đớn.

Cuối cùng, ta có thể thản nhiên thưởng thức những bức phù điêu dài kể chuyện Thutmose III và Rameses II tung hoành chinh phạt; ta nhận ra sự hoàn hảo của những đường nét uyển chuyển trong các phù điêu chạm cho Seti I tại Abydos và Karnak; và ta say mê theo dõi những khắc họa sinh động mà các nghệ sĩ của Nữ hoàng Hatshepsut ghi lại trên tường Der-el-Bahri về chuyến thám hiểm tới xứ Punt huyền bí (có lẽ là Somaliland). Ta thấy những con thuyền dài, buồm căng gió, mái chèo ken dày, hướng nam trong vùng nước đầy rẫy bạch tuộc, giáp xác và muôn loài hải sản; ta thấy đoàn tàu cập bến Punt, được đón tiếp bởi một dân tộc và vị vua vừa kinh ngạc vừa tò mò; ta thấy thủy thủ khuân lên thuyền hàng ngàn món đặc sản bản địa; ta đọc thấy câu bông đùa của một người Punt: “Đi cẩn thận đó, kẻo vấp chân, coi chừng!” Rồi ta cùng theo những chiếc thuyền nặng trĩu trở về phương bắc, chất đầy (theo dòng khắc kể) “những kỳ vật của xứ Punt, tất cả cây hương của miền đất thần thánh, nhũ hương, gỗ mun, ngà voi, vàng, gỗ quý đủ loại, mỹ phẩm cho đôi mắt, khỉ, chó, da báo… chưa từng có vị vua nào từ thuở khai thiên lập địa mang về những thứ tương tự.”

Thuyền đi qua con kênh lớn nối Hồng Hải với sông Nile; ta thấy đoàn viễn chinh cập bến Thebes, đặt mọi loại hàng hóa ngay dưới chân Nữ hoàng. Và cuối cùng, như một cảnh hồi tưởng, ta được thấy tất cả những hàng hóa ngoại lai ấy đang tô điểm cho Ai Cập: khắp nơi là trang sức vàng và gỗ mun, hòm nước hoa và dầu thơm, ngà voi và da thú; còn những cây mang về từ Punt thì mọc tốt đến nỗi dưới tán lá của chúng, bò thung dung nằm nghỉ mát. Đây quả là một trong những phù điêu tối thượng của lịch sử nghệ thuật.

Phù điêu là cầu nối giữa điêu khắc và hội họa. Ở Ai Cập, ngoại trừ dưới thời Ptolemaios và ảnh hưởng Hy Lạp, hội họa chưa bao giờ đạt địa vị độc lập; nó chỉ là phụ trợ cho kiến trúc, điêu khắc và phù điêu—họa sĩ chỉ việc tô màu vào những đường nét mà nghệ nhân đã khắc. Nhưng dẫu ở vị trí phụ, hội họa hiện diện khắp nơi: hầu hết tượng đều được sơn, mọi bề mặt đều có màu. Đây là một nghệ thuật mong manh trước thời gian, thiếu sự trường tồn của tượng và công trình. Rất ít tranh Cổ vương quốc còn lại, ngoài một bức nổi tiếng vẽ sáu con ngỗng trong mộ ở Medum; chỉ riêng bức này cũng đủ cho ta tin rằng ngay từ các triều đại đầu, hội họa đã gần đạt đến sự hoàn mỹ.

Ở Trung vương quốc, ta gặp những bức họa bằng màu nước khô trong mộ Ameni và Khnumhotep ở Beni-Hasan, mang vẻ trang trí duyên dáng, cùng những tác phẩm tuyệt hảo như “Linh dương và nông dân”, hay “Con mèo rình mồi”. Ở đây, một lần nữa, nghệ sĩ nắm bắt được tinh túy: sáng tác phải chuyển động và sống động. Dưới thời Đế quốc, lăng mộ trở thành nơi hội họa bùng nổ. Nghệ sĩ Ai Cập lúc này đã phát triển toàn bộ bảng màu cầu vồng, và nóng lòng phô diễn tài năng. Trên tường và trần nhà của gia thất, đền thờ, cung điện, mồ mả, họ cố gắng tái hiện một cách tươi mới đời sống đồng quê rực nắng—chim bay trên trời, cá bơi dưới nước, thú rừng nơi hoang dã. Sàn nhà được vẽ như hồ nước trong suốt, trần nhà thì mô phỏng sự lấp lánh của bầu trời đầy trang sức. Chung quanh các bức tranh là đường viền họa tiết hình học hoặc hoa lá, từ giản dị thanh thoát đến phức tạp mê hoặc.

Những tác phẩm như “Cô gái nhảy múa”—đầy tính sáng tạo và thần thái; “Săn chim bằng thuyền”; hay hình dáng mảnh mai, trần truồng, làn da màu nâu vàng, hòa cùng các nhạc công trong mộ Nakht ở Thebes—là vài mảnh vụn còn sót lại trong thế giới đầy màu sắc của mộ phần. Ở đây, như trong phù điêu, đường nét tuyệt vời nhưng bố cục yếu; những nhân vật trong cùng một hành động, lẽ ra phải hòa lẫn, thì lại được sắp riêng rẽ nối tiếp; phối cảnh vẫn bị thay thế bằng xếp tầng; sự cứng nhắc và quy ước của điêu khắc Ai Cập vẫn ngự trị, thiếu đi tính hài hước và chủ nghĩa hiện thực đã làm nên sức sống của tượng. Nhưng xuyên qua những bức tranh này là sự tươi mới của ý tưởng, dòng chảy mượt mà của đường nét và bút pháp, lòng trung thành với sinh khí và chuyển động của tạo vật, và một niềm hân hoan tràn ngập trong màu sắc và trang trí—tất cả khiến chúng trở thành niềm vui cho mắt và tâm hồn. Với tất cả thiếu sót, hội họa Ai Cập sẽ không bị bất kỳ nền văn minh phương Đông nào vượt qua, mãi đến thời các triều đại Trung Hoa trung kỳ.

Tiểu nghệ thuật mới thật là đại nghệ thuật của Ai Cập. Cùng sự khéo léo và nhiệt huyết đã dựng nên Karnak và Kim tự tháp, và đã lấp đầy đền đài bằng đoàn dân tượng, người Ai Cập còn dồn công sức để tô điểm nội thất gia đình, trang sức thân thể, và phát triển mọi nét duyên dáng của đời sống. Thợ dệt làm ra thảm, đồ gấm, nệm nhiều màu, mịn màng đến khó tin; hoa văn họ sáng tạo được truyền sang Syria và còn dùng đến nay. Đồ tùy táng trong mộ Tutenkhamon cho thấy mức xa hoa kinh ngạc của đồ gỗ Ai Cập: từng chi tiết đều tinh xảo; ghế dát bạc vàng loè loẹt, giường tráng lệ, hộp nữ trang, giỏ đựng hương liệu tinh vi, bình gốm chỉ có Trung Hoa mới vượt. Bàn ăn chất đầy đồ bạc, vàng, đồng, cốc pha lê, bát đá diorit mài mỏng đến mức ánh sáng xuyên qua thành đá. Những bình alabaster của Tutenkhamon, những chén sen và bát uống rượu tìm thấy trong biệt thự Amenhotep III ở Thebes, cho thấy nghệ thuật gốm đã vươn đến đỉnh cao. Thợ kim hoàn thời Trung vương quốc và Đế quốc đem đến một kho tàng nữ trang hiếm khi bị vượt qua về thiết kế và chế tác: vòng cổ, vương miện, nhẫn, vòng tay, gương soi, bùa ngực, dây chuyền, huân chương; vàng bạc, mã não, felspat, lapis lazuli, thạch anh tím—đủ cả. Người Ai Cập giàu sang có cùng sở thích với người Nhật trong việc thưởng thức cái đẹp của những vật nhỏ bé quanh mình; mỗi ô ngà trên hộp nữ trang đều phải chạm nổi tinh vi. Họ ăn mặc giản dị, nhưng họ sống trọn vẹn. Và khi kết thúc một ngày, họ thư giãn với âm nhạc dịu dàng của đàn lute, đàn harp, sistrum, sáo và lyre. Trong đền đài, cung điện có cả dàn nhạc và ca đoàn; trong triều Pharaoh còn có một “tổng quản ca hát” để tổ chức dàn nhạc phục vụ vua. Không có dấu vết của ký âm pháp ở Ai Cập, nhưng có lẽ chỉ vì chưa tìm thấy. Snefrunofr và Re’mery-Ptah là những “Caruso” và “De Reszke” của thời ấy; và qua bao thế kỷ ta vẫn còn nghe lời khoe khoang của họ rằng họ “đáp ứng mọi mong muốn của nhà vua bằng giọng hát tuyệt vời.”

Thật hiếm hoi khi tên tuổi nghệ sĩ được lưu lại; đa phần những người đã lưu giữ diện mạo và ký ức của vua chúa, tư tế và quý tộc không có cách nào truyền tên mình cho hậu thế. Ta chỉ nghe đến Imhotep, vị kiến trúc sư gần như huyền thoại của triều Zoser; Ineni, người thiết kế những công trình lớn như Der-el-Bahri cho Thutmose I; Puymre, Hapuseneb, Senmut—những người tiếp tục các dự án của Hatshepsut; nghệ sĩ Thutmose, trong xưởng ông đã tìm thấy nhiều kiệt tác; và Bek, nhà điêu khắc kiêu hãnh tự nhận mình đã cứu Ikhnaton khỏi lãng quên. Amenhotep III có vị kiến trúc sư trưởng là Amenhotep, con Hapu; Pharaoh trao cho ông của cải gần như vô hạn, và nghệ sĩ may mắn này nổi tiếng đến mức về sau được thờ như một vị thần. Nhưng phần lớn, nghệ sĩ Ai Cập sống trong vô danh và nghèo khó, không được coi trọng hơn thợ thủ công bình thường dưới mắt giáo sĩ và bậc quyền thế.

Tôn giáo Ai Cập đã phối hợp cùng sự giàu sang để khơi nguồn và nuôi dưỡng nghệ thuật, rồi cũng chính nó, khi đế chế và tài lực suy tàn, góp phần giết chết nghệ thuật. Tôn giáo ban động lực, ý tưởng và cảm hứng; nhưng nó cũng áp đặt quy ước và gò bó, khiến nghệ thuật bị ràng chặt vào đền thờ đến mức khi đức tin chân thành chết dần trong lòng nghệ sĩ, thì những nghệ thuật từng sống nhờ nó cũng tàn theo. Đây chính là bi kịch của hầu hết mọi nền văn minh—rằng linh hồn của nó nằm trong đức tin, và hiếm khi tồn tại nổi khi chỉ còn triết lý.

10. Triết học

“Huấn giới của Ptah-hotep” – “Lời cảnh tỉnh của Ipuwer” – “Đối thoại của kẻ yếm thế” – “Sách Giảng viên” của Ai Cập

Các sử gia triết học thường bắt đầu câu chuyện của mình từ người Hy Lạp. Người Ấn Độ thì tin rằng họ đã phát minh ra triết học; người Trung Hoa thì tin rằng họ đã hoàn thiện nó, và họ mỉm cười trước cái nhìn hạn hẹp của ta. Nhưng có lẽ tất cả chúng ta đều sai; bởi trong số những mảnh vụn cổ xưa còn sót lại của Ai Cập, có những văn bản thuộc về, dù lỏng lẻo và chưa có tính hệ thống, phạm trù triết học đạo đức. Người Hy Lạp vốn đã có câu ngạn ngữ về “trí tuệ Ai Cập”, họ tự thấy mình chỉ là những đứa trẻ so với dân tộc cổ xưa này.

Tác phẩm triết học lâu đời nhất mà ta biết là “Huấn giới của Ptah-hotep”, có niên đại khoảng 2880 TCN—tức là trước Khổng Tử, Socrates và Đức Phật hơn 2300 năm. Ptah-hotep là Thống đốc Memphis, đồng thời là Tể tướng phục vụ dưới triều vua Vương triều thứ Năm. Khi về hưu, ông quyết định để lại cho con trai một cẩm nang của minh triết vĩnh hằng. Tác phẩm này được một số học giả sao chép lại như một cổ điển vào trước Vương triều XVIII. Vị Tể tướng bắt đầu:

“Ôi Hoàng tử, Chúa tể của ta, cuối đời đã gần; tuổi già đã đến; sự yếu đuối xâm chiếm và tính trẻ con trở lại; người già nằm xuống trong khổ sở mỗi ngày. Mắt đã mờ, tai đã điếc. Sinh lực cạn kiệt, tim chẳng còn yên ổn… Xin hãy truyền cho đầy tớ ngài quyền lực vương giả của ta để ta trao lại cho con trai. Hãy để ta nói với nó những lời mà xưa kia các bậc lão thành đã từng nghe từ các vị thần. Xin người cho phép điều này được thực hiện.”

Nhà vua nhân từ đã đồng ý, nhưng khuyên ông rằng hãy “giảng giải sao cho không gây mệt mỏi”—lời khuyên vẫn còn đúng cho các triết gia muôn đời. Và rồi Ptah-hotep dạy con:

“Đừng kiêu ngạo vì con có học thức; hãy trò chuyện với kẻ ngu dốt cũng như với bậc hiền triết. Vì chẳng ai có thể đạt đến sự khéo léo trọn vẹn; cũng không có thợ thủ công nào nắm trọn mọi ưu thế. Lời nói khéo léo hiếm hoi hơn cả viên ngọc lục bảo được tìm thấy bởi nữ nô trong đám sỏi… Hãy sống trong ngôi nhà của lòng nhân ái, và người ta sẽ đến tự nguyện dâng hiến… Hãy cẩn trọng, đừng tạo thù hận bằng lời nói… Chớ vượt quá sự thật, cũng đừng truyền lại những điều mà kẻ khác, dù là vương hay dân, thổ lộ trong lòng; điều đó là ghê tởm trước linh hồn…

Nếu con muốn trở thành người khôn ngoan, hãy sinh một đứa con làm đẹp lòng thần linh. Nếu nó đi thẳng theo gương con, sắp xếp công việc gọn ghẽ, thì hãy đối xử tốt với nó… Nếu nó phóng túng, vi phạm phép tắc, nói lời thô bỉ, thì hãy đánh nó, để lời nói nó trở nên phù hợp… Quý giá đối với một người chính là đức hạnh của con trai mình, và phẩm chất tốt đẹp là điều đáng nhớ…

Bất cứ nơi đâu con đi, hãy dè dặt trong giao du với đàn bà… Nếu con muốn khôn ngoan, hãy chăm lo cho mái ấm, và yêu thương người vợ đang trong vòng tay con… Im lặng có lợi hơn là lời nói nhiều… Hãy nghĩ đến việc con có thể bị một bậc chuyên gia phản bác trong hội đồng. Dại dột thay kẻ nói về mọi việc…

Nếu con có quyền lực, hãy khiến mình được tôn trọng bởi tri thức và sự hiền hòa… Hãy tránh sự cắt ngang, và tránh đáp trả trong nóng nảy; hãy gạt bỏ nó đi, tự kiềm chế mình.”

Và Ptah-hotep kết thúc với niềm kiêu hãnh như Horace:

“Những lời này sẽ không bao giờ biến mất khỏi đất nước này, mà sẽ trở thành khuôn mẫu để các hoàng tử học cách nói năng khéo léo. Lời ta sẽ dạy một người biết cách ăn nói… vâng, hắn sẽ trở nên giỏi trong việc tuân phục, xuất sắc trong lời nói. May mắn sẽ đến với hắn… hắn sẽ được yêu mến cho đến cuối đời, và mãi mãi an nhiên.”

Thế nhưng, nốt nhạc lạc quan này không kéo dài trong tư tưởng Ai Cập; tuổi già đến nhanh và khiến nó trở nên chua chát. Một hiền giả khác, Ipuwer, than khóc sự hỗn loạn, bạo lực, đói kém và suy tàn sau khi Cổ vương quốc sụp đổ. Ông kể về những kẻ hoài nghi “sẽ dâng lễ vật nếu họ biết thần ở đâu”; ông nói về nạn tự sát ngày càng gia tăng, và thêm vào, như một Schopenhauer khác:

“Ước gì con người chấm dứt, để không còn thụ thai, không còn sinh nở. Ước gì đất nước thôi ồn ào, và tranh chấp không còn nữa.”

Rõ ràng Ipuwer đã mỏi mệt và già nua. Cuối cùng, ông mơ về một vị minh quân triết gia sẽ cứu nhân loại khỏi hỗn loạn và bất công:

“Người ấy làm dịu ngọn lửa (của sự hủy diệt xã hội?). Người ta nói rằng ông là mục tử của toàn dân. Trong tim ông chẳng có điều ác. Khi đàn ông còn ít, ông vẫn ngày ngày đi gom góp, trái tim họ còn rối loạn. Ước chi ông đã nhận ra bản chất của họ ngay từ đời đầu, thì ông đã diệt trừ cái ác, diệt tận gốc giống nòi và gia sản của nó… Ngày nay ông ở đâu? Chẳng lẽ ông đang ngủ? Kìa, sức mạnh ông chẳng thấy đâu.”

Đây đã là giọng điệu của các ngôn sứ; câu chữ được gieo vần như văn khải huyền của người Do Thái. Breasted đã gọi những “Lời cảnh tỉnh” này là “sự xuất hiện sớm nhất của lý tưởng xã hội mà nơi người Do Thái ta gọi là ‘Chủ nghĩa Cứu thế’.”

Một cuộn giấy khác từ Trung vương quốc lên án sự bại hoại của thời đại bằng những lời mà hầu như thế hệ nào cũng nghe thấy:

Hôm nay ta phải nói với ai đây?
Anh em thì độc ác,
Bằng hữu chẳng còn tình.
Hôm nay ta phải nói với ai đây?
Trái tim thì trộm cắp,
Ai cũng cướp lấy của cải kề bên.
Hôm nay ta phải nói với ai đây?
Người hiền lành thì diệt vong,
Kẻ trâng tráo thì đi khắp nơi…
Hôm nay ta phải nói với ai đây?
Khi một kẻ lẽ ra phải bị phẫn nộ vì hành vi xấu xa,
Thì lại khiến mọi người cười vui, dù tội lỗi hắn thật đồi bại…

Và rồi, “nhà thơ bi quan” Ai Cập ấy đã cất lên một bài ca tuyệt đẹp ca ngợi cái chết:

Cái chết hôm nay trước mắt ta
Như sự hồi phục của người bệnh,
Như bước ra vườn sau cơn ốm.
Cái chết hôm nay trước mắt ta
Như hương nhựa thơm,
Như ngồi dưới buồm trong ngày gió mát.
Cái chết hôm nay trước mắt ta
Như hương sen tỏa,
Như ngồi bên bờ say sưa.
Cái chết hôm nay trước mắt ta
Như dòng nước lũ cuốn,
Như người lính thuyền trở về nhà.
Cái chết hôm nay trước mắt ta
Như nỗi khát khao của kẻ lưu đày nhiều năm
Mong được trông thấy quê hương.

Buồn thảm nhất trong số ấy là một bài thơ được khắc trên một tấm bia nay còn lưu giữ tại Bảo tàng Leyden, có niên đại khoảng năm 2200 TCN. Bài thơ ca lên tinh thần carpe diem—hãy nắm bắt lấy ngày hôm nay:

Ta đã nghe lời Imhotep và Hardedef,
Những lời được ca tụng muôn đời.
Kìa, nơi chốn của họ—
Tường đã đổ nát,
Nơi ấy chẳng còn,
Như thể chưa bao giờ tồn tại.
Chẳng ai từ đó trở về,
Để kể cho ta họ ra sao…
Để làm lòng ta được yên,
Cho đến khi chính ta cũng đi
Về miền đất họ đã khuất.

Hãy khích lệ trái tim ngươi mà quên đi điều ấy,
Hãy làm cho cuộc sống dễ chịu bằng cách theo đuổi ước muốn
Bao lâu còn sống.
Hãy xức nhựa thơm trên đầu,
Hãy mặc áo lụa mịn,
Được thấm nhuần những xa hoa tuyệt diệu,
Những báu vật chân thật của thần linh.

Hãy gia tăng khoái lạc của ngươi,
Đừng để lòng héo úa.
Hãy theo đuổi ước muốn và điều lành của ngươi,
Hãy sắp đặt việc đời
Theo mệnh lệnh của chính trái tim,
Cho đến ngày than khóc đến với ngươi,
Khi kẻ yên lặng (người chết) không nghe tiếng than,
Và kẻ trong mộ chẳng còn để tâm đến tang lễ.

Hãy vui với ngày hân hoan;
Đừng chán chường trong đó.
Kìa, chẳng ai mang của cải theo mình;
Vâng, chẳng ai trở lại từ chốn đã đi.

Sự bi quan và hoài nghi này, có lẽ, bắt nguồn từ tinh thần gãy đổ của một dân tộc bị người Hyksos xâm lược, chinh phục và làm nhục. Chúng có ý nghĩa với Ai Cập giống như Chủ nghĩa Khắc kỷChủ nghĩa Khoái lạc đối với một Hy Lạp bại trận và nô lệ. Một phần, những áng văn như thế đại diện cho những khoảng lặng của lịch sử, như “thời kỳ trống vắng đạo đức” của chính ta, khi tư tưởng trong chốc lát vượt lên đức tin, và con người không còn biết sống thế nào và để làm gì.

Nhưng những thời kỳ ấy không kéo dài; hy vọng chẳng bao lâu lại chiến thắng lý trí. Trí tuệ bị đặt trở lại vị trí tôi tớ quen thuộc của nó, và tôn giáo tái sinh, mang đến cho con người nguồn cảm hứng tưởng tượng dường như không thể thiếu cho sự sống và lao động. Ta không nên nghĩ rằng những bài thơ này phản ánh quan điểm của đông đảo người Ai Cập; quanh quẩn và bao bọc nhóm thiểu số nhưng quan trọng ấy—những người suy tư về ý nghĩa của sống và chết theo lối thế tục và tự nhiên—là hàng triệu con người bình dị vẫn trung thành với các thần linh, và chưa bao giờ hoài nghi rằng lẽ phải sẽ thắng, rằng mọi đau khổ và bi thương trần thế rồi sẽ được đền bù dư dật trong một miền hạnh phúc và an bình vĩnh cửu.

11. Tôn giáo

Các vị thần bầu trời – Thần mặt trời – Thần cây cối – Thần loài vật – Thần tính dục – Thần mang hình người – Osiris – Isis và Horus – Các thần nhỏ – Giới tăng lữ – Sự bất tử – “Sách của Người chết” – “Lời thú tội phủ định” – Ma thuật – Sự suy đồi

Bên dưới và bao trùm lên trên mọi thứ trong đời sống Ai Cập chính là tôn giáo. Ở đó, ta gặp đủ mọi giai đoạn và hình thái của tín ngưỡng, từ hình thức totem sơ khai cho đến thần học tinh vi; ta thấy ảnh hưởng của nó trong văn học, chính quyền, nghệ thuật – trong mọi lĩnh vực, ngoại trừ đạo đức. Và không chỉ đa dạng, nó còn phong phú một cách nhiệt đới; chỉ ở La Mã và Ấn Độ mới có một “ngân hàng thần linh” dồi dào đến thế. Chúng ta không thể hiểu người Ai Cập – hay nói rộng hơn là con người – nếu chưa tìm hiểu các vị thần của họ.

Người Ai Cập nói rằng, khởi đầu là bầu trời; và cho đến cuối cùng, bầu trời cùng với sông Nile vẫn là những vị thần tối cao của họ. Tất cả những thiên thể huyền diệu kia không phải chỉ là vật thể, mà là những hình dạng hữu hình của các linh hồn hùng mạnh – những vị thần có ý chí riêng, đôi khi còn mâu thuẫn nhau – đã định đoạt nên những chuyển động phức tạp trên bầu trời. Bản thân bầu trời là một vòm lớn, nơi một con bò khổng lồ – nữ thần Hathor – đứng sừng sững, với đôi chân chạm đất và chiếc bụng rực rỡ ánh sáng của muôn vàn vì sao. Hoặc (vì thần thoại thay đổi theo từng quận, từng vùng) bầu trời là thần Sibu nằm âu yếm lên mặt đất – nữ thần Nuit; từ sự giao hợp khổng lồ ấy, vạn vật đã được sinh ra. Những chòm sao và các ngôi sao riêng lẻ cũng có thể là thần: chẳng hạn, Sahu và Sopdit (Orion và Sirius) đều là các thần khủng khiếp; Sahu “ăn thịt các thần” đều đặn ba lần mỗi ngày. Đôi khi, một sinh vật quái dị nào đó lại nuốt cả mặt trăng, nhưng chỉ trong chốc lát; rồi những lời cầu khẩn của con người và cơn thịnh nộ của các thần khác sẽ buộc kẻ tham lam ấy phải nôn trả nó ra. Đó là cách người Ai Cập bình dân giải thích hiện tượng nguyệt thực.

Mặt trăng cũng là một vị thần, có lẽ là vị cổ xưa nhất từng được tôn thờ ở Ai Cập; nhưng trong thần học chính thống, vị thần vĩ đại nhất lại là mặt trời. Đôi khi mặt trời được tôn thờ như thần tối cao Ra (hay Re), người cha rực rỡ, ban sự sống cho Mẹ Đất bằng sức nóng và ánh sáng thấm nhuần; đôi khi nó là con bê thần linh, được sinh ra mới mẻ vào mỗi bình minh, lênh đênh trên bầu trời bằng một con thuyền thiên thể, rồi về phía tây lúc hoàng hôn như một ông già khập khiễng đi về mồ. Hoặc mặt trời là thần Horus, trong hình dạng chim ưng uyển chuyển, bay lượn oai nghi trên bầu trời ngày này qua ngày khác, như đang giám sát cõi trời – và trở thành một trong những biểu tượng quen thuộc của tôn giáo và vương quyền Ai Cập. Ra – tức mặt trời – luôn được xem là Đấng Sáng Tạo: trong lần đầu tiên mọc lên, thấy trái đất hoang vu trơ trụi, ngài liền chiếu xuống những tia sáng đầy sinh lực, khiến mọi sự sống – cây cỏ, muông thú, con người – ùa ra từ đôi mắt ngài, rồi tản khắp thế giới. Người xưa, vốn là con cháu trực tiếp của Ra, từng hoàn hảo và hạnh phúc; dần dần, con cháu họ trở nên sa đọa và đánh mất sự hoàn hảo ấy. Ra bèn nổi giận, tiêu diệt một phần lớn loài người. Những người Ai Cập học thức lại phản bác tín ngưỡng này, cho rằng (tương tự các học giả Sumer) loài người thuở ban sơ giống như thú vật, chưa có ngôn ngữ hay nghệ thuật sống. Tựu trung, thần thoại ấy là một nỗ lực khôn ngoan để diễn đạt tấm lòng biết ơn của con người với mặt đất và mặt trời.

Niềm sùng tín ấy dồi dào đến mức người Ai Cập không chỉ thờ nguồn sống, mà gần như tôn thờ mọi hình thái của sự sống. Nhiều loài cây đối với họ là thiêng liêng: cây cọ tỏa bóng giữa sa mạc, con suối trong ốc đảo cho nước uống, lùm cây để gặp gỡ và nghỉ ngơi, hay cây sung mọc mát lành giữa cát bỏng. Với lý do chính đáng, tất cả đều được xem là linh thiêng; và cho đến tận cuối nền văn minh, người Ai Cập chất phác vẫn dâng lên chúng những quả dưa chuột, chùm nho, trái vả. Ngay cả rau củ tầm thường cũng có tín đồ; và Taine đã từng châm biếm bằng việc chỉ ra rằng củ hành – từng khiến Bossuet khó chịu – từng là một vị thần bên bờ sông Nile.

Nhưng phổ biến hơn cả là các thần thú vật; chúng đông đảo đến mức biến cả điện thờ Ai Cập thành một sở thú ồn ào. Tùy từng vùng, từng thời, người Ai Cập thờ bò, cá sấu, diều hâu, bò cái, ngỗng, dê, cừu đực, mèo, chó, gà, chim én, chó rừng, rắn; và để cho một số con vật ấy tự do đi lại trong đền thờ, giống như bò thần vẫn được tự do đi lại trong các đền ở Ấn Độ ngày nay. Khi các thần mang hình người, họ vẫn giữ những linh vật song hành và biểu tượng: Amon được biểu thị bằng hình ngỗng hay cừu đực, Ra bằng châu chấu hoặc bò, Osiris bằng bò hay cừu, Sebek bằng cá sấu, Horus bằng chim ưng, Hathor bằng bò cái, Thoth – thần trí tuệ – bằng khỉ đầu chó. Đôi khi phụ nữ được dâng cho một số con vật này như bạn tình; đặc biệt, bò – hiện thân của Osiris – được nhận vinh dự ấy; ở Mendes, Plutarch kể rằng những phụ nữ đẹp nhất đã bị hiến dâng trong giao hợp cho con dê thần. Từ đầu đến cuối, tín ngưỡng totem ấy vẫn là yếu tố cố hữu trong tôn giáo Ai Cập; còn các thần mang hình người chỉ đến muộn hơn, có lẽ như món quà từ vùng Tây Á.

Con dê và con bò đặc biệt thiêng liêng, vì tượng trưng cho năng lực sinh sản; chúng không chỉ là biểu tượng của Osiris, mà chính là hiện thân của ngài. Osiris thường được khắc họa với bộ phận sinh dục lớn và nổi bật như dấu hiệu của quyền lực tối thượng; những hình tượng như thế, thậm chí có dạng ba dương vật, được người Ai Cập rước đi trong các lễ hội tôn giáo; đôi khi phụ nữ mang theo các hình tượng ấy và dùng dây để vận hành cơ học. Dấu vết của việc thờ sinh thực khí còn hiện diện không chỉ trong vô số phù điêu khắc họa dương vật cương cứng, mà còn trong sự xuất hiện thường xuyên của crux ansata – cây thánh giá có tay cầm – như dấu hiệu của sự hợp nhất tình dục và sức sống mạnh mẽ.

Sau cùng, các vị thần trở thành người – hay đúng hơn, con người trở thành thần. Giống như các thần Hy Lạp, những vị thần mang hình người của Ai Cập chỉ là những đàn ông, đàn bà vượt trội, mang dáng vẻ anh hùng, nhưng vẫn gồm xương thịt, máu huyết; họ đói khát, ăn uống, yêu đương, kết đôi, hận thù, giết chóc, già đi và chết. Osiris, chẳng hạn, là thần của dòng sông Nile hiền hòa, cái chết và sự phục sinh của ngài được cử hành mỗi năm như biểu tượng cho sự hạ xuống và dâng lên của dòng sông, có lẽ cũng như cho sự tàn lụi và sinh trưởng của đất đai. Mọi người Ai Cập thời hậu kỳ đều biết câu chuyện: Set (hay Sit) – vị thần hung dữ của hạn hán, kẻ thiêu cháy mùa màng bằng hơi thở nóng bỏng – đã căm giận Osiris (tức sông Nile) vì sự tràn bờ mang lại màu mỡ cho đất, bèn giết ngài và thống trị khô cằn vương quốc của Osiris (ngụ ý: khi sông Nile không dâng). Sau đó, Horus – người con dũng cảm của Isis – đánh bại Set và xua đuổi hắn; Osiris, được hồi sinh nhờ tình yêu nồng ấm của Isis, lại cai trị nhân từ trên đất Ai Cập, chấm dứt nạn ăn thịt người, lập nên nền văn minh, rồi lên trời để trị vì muôn đời như một vị thần.

Ấy là một thần thoại thâm sâu; bởi lịch sử, giống như tôn giáo phương Đông, vốn mang tính nhị nguyên – là câu chuyện về cuộc chiến giữa sáng tạo và hủy diệt, phì nhiêu và khô hạn, tái sinh và suy tàn, thiện và ác, sự sống và cái chết.

Sâu sắc không kém là thần thoại về Isis – Người Mẹ Vĩ Đại. Bà không chỉ là người chị và người vợ trung thành của Osiris; theo một nghĩa nào đó, bà còn lớn lao hơn ông, bởi – giống như bản chất của người phụ nữ nói chung – bà đã chiến thắng cái chết bằng tình yêu. Bà cũng không chỉ là mảnh đất đen màu mỡ nơi châu thổ, được thụ thai bởi sự chạm đến của Osiris – dòng Nile, và nhờ đó làm cả Ai Cập tràn đầy phì nhiêu. Trên hết, bà chính là biểu tượng của quyền năng sáng tạo huyền nhiệm đã sinh ra đất và muôn loài, cùng tình mẫu tử dịu dàng nuôi dưỡng sự sống non trẻ trưởng thành, dù phải trả giá thế nào cho người mẹ.

Isis tượng trưng cho nguyên lý nữ tính trong sáng tạo và di truyền, cho vai trò tiên khởi của người phụ nữ trong việc khai phá đất đai; cũng như Kali, Ishtar và Cybele ở châu Á, Demeter ở Hy Lạp, hay Ceres ở La Mã. Theo thần thoại, chính Isis là người đầu tiên phát hiện ra lúa mì và lúa mạch mọc hoang ở Ai Cập, rồi bày cho Osiris (người nam). Người Ai Cập tôn thờ bà với lòng mộ đạo và trìu mến đặc biệt, dựng nên những tượng khảm ngọc quý để tôn vinh bà như Mẹ Thiên Chúa. Các tư tế cạo đầu ca ngợi bà trong những buổi kinh sáng và kinh chiều trang nghiêm. Và mỗi năm, vào giữa mùa đông – thời khắc mặt trời tái sinh, trùng với cuối tháng Chạp theo lịch của ta – trong các đền thờ Horus (thần mặt trời, con bà), người ta tôn kính trưng bày hình ảnh Isis đang cho con bú trong một chuồng cỏ, đứa con mà bà đã thụ thai một cách nhiệm mầu. Những truyền thuyết và biểu tượng vừa thơ mộng vừa triết học ấy đã để lại ảnh hưởng sâu sắc đến nghi thức và thần học Kitô giáo. Các tín hữu Kitô sơ khai đôi khi còn quỳ trước tượng Isis đang cho Horus bú, coi đó như một hình thức khác của huyền thoại cổ xưa cao quý, trong đó người nữ – nguyên lý sáng tạo – cuối cùng trở thành Mẹ Thiên Chúa.

Những vị thần vĩ đại của Ai Cập là Ra (hay ở miền Nam gọi là Amon), Osiris, Isis và Horus. Về sau, Ra, Amon và một vị thần khác là Ptah được hợp nhất thành ba phương diện của một Thượng Đế duy nhất và ba ngôi. Ngoài ra còn vô số thần nhỏ: Anubis – thần chó rừng, Shu, Tefnut, Nephthys, Ket, Nut… Nhưng chúng ta không nên biến trang sách này thành một bảo tàng của các thần đã chết. Ngay cả Pharaoh cũng là thần – luôn là con trai của Amon-Ra, trị vì không chỉ theo “quyền thần thánh” mà còn theo “huyết thống thần thánh”, như một vị thần tạm thời ngụ ở trần gian. Trên đầu ông là chim ưng – biểu tượng của Horus và totem của bộ tộc; từ trán ông vươn lên urœus, con rắn dựng đứng – biểu tượng của trí tuệ và sự sống, truyền cho vương miện năng lực ma thuật. Nhà vua là thượng tế tối cao, dẫn đầu các đoàn rước và nghi lễ trọng đại mừng các lễ hội thần linh. Chính nhờ việc nhận lấy dòng dõi và quyền năng thần thánh này mà Pharaoh có thể cai trị lâu dài với rất ít bạo lực.

Vì thế, giới tư tế Ai Cập trở thành chỗ dựa tất yếu của ngai vàng và lực lượng mật vụ bảo vệ trật tự xã hội. Với một tín ngưỡng phức tạp đến vậy, tất yếu phải có một tầng lớp chuyên về ma thuật và nghi lễ, giữ vai trò trung gian không thể thiếu giữa con người và các thần. Trên thực tế, tuy không thành luật, chức tư tế thường được truyền từ cha sang con, dần dần hình thành một giai cấp mà nhờ lòng sùng đạo của dân chúng cùng sự hào phóng có tính toán của các vua chúa, họ trở nên giàu mạnh hơn cả quý tộc phong kiến hay hoàng tộc.

Lễ vật dâng cúng thần linh cung cấp lương thực, đồ uống cho họ; các công trình đền thờ mang lại cho họ những nơi ở rộng rãi; nguồn thu từ đất đai và dịch vụ của đền thờ đem lại cho họ thu nhập dồi dào. Họ lại được miễn lao dịch, miễn quân dịch và miễn thuế thường; nhờ đó, họ ở vào địa vị vừa quyền lực vừa được kính nể. Và họ xứng đáng phần nào với uy thế ấy: họ tích lũy và lưu giữ tri thức Ai Cập, giáo dục thanh thiếu niên, và rèn luyện bản thân bằng sự nghiêm cẩn và nhiệt thành. Herodotus mô tả họ với giọng gần như kính sợ:

“Trong tất cả loài người, họ là những kẻ chuyên chú nhất vào việc thờ phụng thần thánh, và giữ những nghi lễ sau đây… Họ mặc áo vải lanh luôn được giặt sạch. Họ chịu phép cắt bì để giữ sự thanh sạch, cho rằng sạch sẽ thì tốt hơn là đẹp đẽ. Ba ngày một lần họ cạo toàn thân để không còn chí rận hay bất cứ nhơ bẩn nào. Họ tắm bằng nước lạnh hai lần mỗi ngày và hai lần mỗi đêm.”

Điều làm tôn giáo Ai Cập khác biệt hơn cả chính là trọng tâm đặt vào niềm tin vào sự bất tử. Nếu Osiris, sông Nile và muôn cây cỏ có thể tái sinh, thì con người cũng thế. Việc xác chết được bảo tồn kỳ diệu trong lòng đất khô của Ai Cập càng củng cố cho niềm tin ấy – một niềm tin đã thống trị tín ngưỡng Ai Cập suốt hàng ngàn năm, và sau đó “tái sinh” trong Kitô giáo.

Người Ai Cập tin rằng thân xác con người cư ngụ một bản sao nhỏ bé gọi là ka, cùng với một linh hồn trú ngụ trong thân thể như con chim bay lượn giữa rừng cây. Tất cả – thân xác, ka và linh hồn – đều tồn tại sau cái chết. Sự bất tử của họ phụ thuộc vào việc giữ cho xác thịt khỏi mục rữa; nhưng nếu họ đến với Osiris trong sự tinh sạch, không tội lỗi, họ sẽ được sống mãi trong “Cánh đồng Hạnh phúc” – khu vườn thiên giới đầy lương thực và an toàn.

Tuy nhiên, những cánh đồng ấy chỉ có thể đến được nhờ một người lái đò – nguyên mẫu Ai Cập của Charon. Ông lão này chỉ chở những ai chưa từng làm điều ác trong đời. Hoặc Osiris sẽ trực tiếp xét xử, cân trái tim người chết với một chiếc lông vũ để thử lòng chân thật. Kẻ nào không vượt qua kỳ thi cuối cùng này sẽ bị kết án nằm mãi trong mồ, đói khát, bị cá sấu quái dị gặm nhấm, chẳng bao giờ thấy lại ánh mặt trời.

Theo giới tư tế, có nhiều cách “qua cửa” khéo léo – tất nhiên là để đổi lấy lễ vật. Một cách là đặt sẵn trong mộ thức ăn, đồ uống và người hầu để phục dịch người chết. Một cách khác là chất đầy mộ những bùa chú làm vui lòng thần linh: cá, kền kền, rắn, và đặc biệt là bọ hung (scarab) – loài côn trùng tự sinh sản như thể không cần thụ tinh, được xem như biểu tượng của linh hồn phục sinh; nếu được tư tế làm phép đúng cách, chúng sẽ xua đuổi mọi kẻ thù và tiêu diệt mọi sự dữ.

Cách tốt hơn cả là mua Sách của Người chết – những cuộn giấy cói ghi đầy lời cầu nguyện, công thức và bùa chú do các tư tế soạn, nhằm xoa dịu, thậm chí đánh lừa Osiris. Sau khi trải qua trăm ngàn hiểm nguy, linh hồn cuối cùng sẽ đến trước Osiris và dâng lời khẩn cầu như sau:

“Hỡi Ngài, Đấng làm vội vã đôi cánh của Thời gian,
Đấng ngự trong mọi huyền nhiệm của sự sống,
Đấng canh giữ từng lời ta thốt ra –
Nay Ngài hổ thẹn vì ta, đứa con của Ngài;
Trái tim Ngài trĩu nặng buồn đau và hổ thẹn,
Vì tội lỗi ta chất chồng nơi trần gian,
Và sự kiêu ngạo, ngỗ nghịch, cùng lỗi lầm của ta.
Ôi, xin Ngài hòa giải cùng ta, xin Ngài nguôi giận,
Phá tan mọi bức tường ngăn cách giữa chúng ta!
Xin rửa sạch mọi tội lỗi của ta,
Để chúng rơi rụng, bị lãng quên trước mặt Ngài!
Vâng, hãy xóa bỏ mọi điều gian ác của ta,
Và cất đi nỗi hổ thẹn đang tràn ngập tim Ngài,
Để từ nay, Ngài và ta được bình an vĩnh viễn.”

Hoặc linh hồn phải tự tuyên bố sự vô tội của mình đối với mọi tội ác lớn, trong một bản “Lời thú tội phủ định” – một trong những biểu hiện sớm sủa và cao quý nhất của ý thức luân lý nơi con người:

“Kính chào Ngài, Đại Thần, Chúa của Sự Thật và Công Lý! Con đã đến trước mặt Ngài, lạy Thầy của con; con được dẫn đến để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Ngài… Con mang đến cho Ngài Chân Lý… Con không hề phạm tội ác chống lại loài người. Con không hề áp bức kẻ nghèo… Con không hề bắt một người tự do phải lao dịch vượt quá công việc mà chính anh ta làm cho bản thân mình… Con không hề thất tín, không hề làm điều ghê tởm trước mặt các thần. Con không hề khiến một nô lệ bị chủ ngược đãi. Con không hề bỏ đói ai, không làm ai phải khóc lóc, không hề ám sát một ai… Con không hề phản bội ai. Con không hề bớt xén phần lễ vật của đền thờ; con không hề làm hư hỏng bánh thánh của các thần… Con không hề làm hành động xác thịt trong khuôn viên thánh của đền. Con không hề phạm thượng… Con không hề gian dối cân đo. Con không hề lấy sữa khỏi miệng trẻ sơ sinh. Con không hề… giăng lưới bắt những con chim của thần linh… Con trong sạch. Con trong sạch. Con trong sạch.”

Tuy nhiên, nhìn chung, tôn giáo Ai Cập ít bàn đến đạo đức. Giới tư tế bận rộn hơn với việc bán bùa, lẩm bẩm thần chú, và thực hiện các nghi lễ ma thuật, hơn là dạy dỗ nguyên tắc luân lý. Ngay cả Sách của Người chết cũng dạy các tín đồ rằng những bùa chú được tư tế làm phép có thể vượt qua mọi trở ngại mà linh hồn gặp trên đường đến cứu độ; nhấn mạnh nhiều hơn vào việc đọc lời cầu thay vì sống một đời thiện lương. Một cuộn sách viết: “Nếu người chết biết được điều này, họ sẽ bước ra ban ngày” – tức là sống lại đời đời. Bùa hộ mệnh và thần chú được sáng chế, rao bán để che lấp muôn tội lỗi và thậm chí đưa chính Quỷ dữ vào thiên đường.

Người Ai Cập mộ đạo ở mọi bước đều phải lẩm nhẩm những câu thần chú lạ lùng để xua dữ, rước lành. Chẳng hạn, hãy nghe một bà mẹ lo âu đang cố đuổi “quỷ” ra khỏi đứa con mình:

“Hãy cút đi, hỡi kẻ đến trong bóng tối, kẻ lén lút xâm nhập… Ngươi đến để hôn đứa trẻ này ư? Ta sẽ không cho ngươi hôn nó… Ngươi đến để mang nó đi ư? Ta sẽ không cho ngươi mang nó rời khỏi ta. Ta đã làm bùa hộ thân cho nó chống lại ngươi bằng cỏ Efet – loài gây đau đớn; bằng hành – loài khiến ngươi tổn hại; bằng mật ong – thứ ngọt ngào với người sống nhưng đắng cay với kẻ chết; bằng những phần độc hại của cá Ebdu; bằng xương sống của cá rô.”

Ngay cả các vị thần cũng dùng ma thuật và bùa chú chống lại nhau. Văn học Ai Cập tràn ngập các pháp sư – những kẻ có thể làm cạn hồ chỉ bằng một lời, khiến chi thể đứt lìa tự ghép lại, hay gọi kẻ chết sống dậy. Nhà vua cũng có pháp sư để trợ giúp và dẫn đường; chính ông ta cũng được tin là có quyền năng ma thuật khiến mưa rơi hay sông dâng.

Cuộc sống đầy bùa chú, thần phù, lời tiên tri; mỗi cánh cửa đều phải có một vị thần trấn giữ để xua tà khí hoặc vận rủi. Trẻ em sinh ngày 23 tháng Thoth chắc chắn sẽ chết sớm; trẻ sinh ngày 20 tháng Choiakh sẽ bị mù. Herodotus viết:

“Mỗi ngày và mỗi tháng đều được gán cho một vị thần nào đó; và tùy theo ngày sinh mà người ta đoán định vận mệnh của mỗi cá nhân: họ sẽ ra sao, chết thế nào, và là người loại gì.”

Rốt cuộc, mối liên hệ giữa đạo đức và tôn giáo dần bị lãng quên; con đường dẫn đến hạnh phúc vĩnh hằng không còn là đời sống thiện lương, mà là ma thuật, nghi lễ, và sự hào phóng dành cho các thầy tư tế. Một nhà Ai Cập học vĩ đại đã tóm lược vấn đề như sau:

“Những hiểm nguy nơi cõi chết giờ đã bị nhân lên gấp bội; và trong mọi tình huống nguy kịch, tư tế đều có thể cung cấp cho người chết một bùa chú hữu hiệu, bảo đảm sẽ cứu được họ. Ngoài vô số bùa chú giúp linh hồn đến được thế giới bên kia, còn có những bùa chú ngăn không cho họ mất đi miệng, đầu, hay trái tim; có bùa giúp họ nhớ tên mình, thở, ăn, uống, tránh ăn chính sự nhơ bẩn của mình, ngăn nước uống biến thành lửa, biến bóng tối thành ánh sáng, xua đuổi rắn rết và quái vật thù nghịch, cùng vô số điều khác nữa… Thế là sự phát triển luân lý sớm sủa nhất mà ta có thể lần theo ở phương Đông cổ đại đã đột ngột bị chặn đứng, hoặc ít nhất bị kìm hãm, bởi những mánh khóe ghê tởm của một giới tăng lữ tham lam.”

Tôn giáo Ai Cập đang ở trong tình trạng như thế khi Ikhnaton – thi sĩ và kẻ dị giáo – bước lên ngai vàng và khai mở cuộc cách mạng tôn giáo đã hủy diệt cả Đế quốc Ai Cập.

IV. VỊ VUA DỊ GIÁO

Tính cách của Ikhnaton – Tôn giáo mới – Thánh thi ca ngợi mặt trời – Độc thần giáo – Giáo điều mới – Nghệ thuật mới – Phản ứng – Nofretete – Sự tan rã của đế quốc – Cái chết của Ikhnaton

Năm 1380 TCN, Amenhotep III – vị vua kế tục Thutmose III – qua đời sau một đời sống xa hoa, tráng lệ. Con trai ông lên ngôi, Amenhotep IV, người sau này được biết đến với tên Ikhnaton. Một pho tượng bán thân được phát hiện ở Tell-el-Amarna cho thấy chân dung vô cùng tinh tế của ông: khuôn mặt mềm mại nữ tính, mơ màng thi sĩ; đôi mí mắt lớn của kẻ mộng mơ, chiếc sọ dài bất thường, thân hình mảnh khảnh yếu ớt – như thể một Shelley được định mệnh gọi làm vua.

Vừa lên ngôi, ông đã chống lại tôn giáo Amon và giới tăng lữ của Amon. Trong ngôi đền lớn ở Karnak khi ấy có cả một hậu cung – danh nghĩa là cung phi của Amon, nhưng thực tế chỉ để làm trò tiêu khiển cho đám giáo sĩ. Vị hoàng đế trẻ, vốn sống đời thủy chung gương mẫu, không thể chấp nhận sự đồi bại ấy; mùi máu cừu đực bị hiến tế cho Amon làm ông ghê tởm; việc các tư tế buôn bán bùa chú, lợi dụng lời sấm của Amon để duy trì sự mù mờ tôn giáo và nuôi dưỡng tham nhũng chính trị khiến ông phẫn nộ đến mức công khai phản đối. “Lời của các tư tế còn xấu xa hơn những gì ta đã nghe đến năm thứ IV trong triều đại ta; còn xấu xa hơn cả những gì Vua Amenhotep III từng nghe,” ông nói.

Tinh thần tuổi trẻ của Ikhnaton nổi loạn trước sự suy đồi mà tôn giáo dân tộc đã rơi vào: ông khinh ghét sự giàu có trụy lạc và những nghi lễ xa hoa của các đền thờ, cũng như thế lực ngày càng siết chặt của giới tăng lữ tham lam đối với đời sống quốc gia. Với lòng táo bạo của một thi sĩ, ông vứt bỏ mọi thỏa hiệp, tuyên bố mạnh mẽ rằng tất cả các vị thần và nghi lễ ấy chỉ là sự thờ ngẫu tượng thô tục, rằng chỉ có một thần duy nhất – Aton.

Giống như Akbar ở Ấn Độ ba ngàn năm sau, Ikhnaton thấy thần tính hiện rõ nhất trong mặt trời – nguồn gốc của sự sống và ánh sáng trên trần gian. Chúng ta không biết liệu ông có vay mượn lý thuyết này từ Syria, và liệu Aton có chỉ là một dạng của Adonis. Dù nguồn gốc thế nào, vị thần mới này đã lấp đầy tâm hồn ông bằng niềm hân hoan. Ông đổi tên mình từ Amenhotep (chứa tên thần Amon) sang Ikhnaton, nghĩa là “Aton thỏa lòng”. Ông lấy cảm hứng từ các thánh thi cũ và vài bài ca độc thần xuất hiện trong triều đại trước, sáng tác những bài ca nồng nhiệt dâng Aton. Bài ca dài nhất và hay nhất, cũng là di sản rực rỡ nhất còn lại của văn học Ai Cập, chính là đây:


Thánh thi dâng Aton

Bình minh của Ngài rực rỡ chân trời,
Hỡi Aton hằng sống, khởi nguyên của sự sống.
Khi Ngài mọc nơi phía đông trời,
Ngài làm muôn xứ sở ngập đầy vẻ đẹp.
Ngài đẹp đẽ, cao cả, sáng ngời, vượt trên mọi miền,
Tia nắng Ngài choàng trùm tất cả những gì Ngài đã tạo.
Ngài là Re, và Ngài thu phục muôn loài,
Ngài trói buộc tất cả bằng tình yêu của Ngài.
Dẫu xa vời, tia sáng Ngài vẫn ở trên đất;
Dẫu ở nơi cao, dấu chân Ngài chính là ánh ngày.

Khi Ngài lặn ở phía tây trời,
Mặt đất chìm vào bóng tối như người chết;
Người ta ngủ trong căn phòng,
Đầu quấn kín vải,
Mũi lỗ bị che,
Chẳng ai thấy mặt người kia,
Vật đặt dưới đầu đều bị lấy mất
Mà họ không hay biết.
Mọi sư tử đều ra khỏi hang,
Rắn rết bò ra cắn chích…
Cả thế giới chìm trong lặng im,
Đấng tạo dựng an nghỉ nơi chân trời.

Mặt đất sáng bừng khi Ngài mọc lên,
Khi Ngài chiếu sáng như Aton giữa ban ngày,
Ngài xua tan bóng tối.
Khi tia sáng Ngài lan tỏa,
Hai miền đất hằng vui hội,
Thức dậy, đứng trên đôi chân
Khi Ngài đã nâng họ dậy.
Thân thể tắm rửa, họ khoác áo,
Tay giơ cao chúc tụng bình minh của Ngài.
Khắp thế gian họ làm công việc của mình.

Gia súc nghỉ ngơi nơi đồng cỏ,
Cây cối sinh sôi, nảy nở,
Chim chóc xao xác nơi đầm lầy,
Cánh vỗ cao chúc tụng Ngài.
Bầy cừu nhảy múa trên đôi chân,
Mọi loài có cánh bay lượn,
Chúng sống khi Ngài tỏa sáng trên chúng.
Thuyền bè xuôi ngược trên dòng,
Mọi nẻo đường đều mở khi Ngài mọc.
Cá dưới sông tung mình trước mặt Ngài,
Tia sáng Ngài ở giữa biển xanh mênh mông.

Ngài – Đấng tạo mầm trong người nữ,
Đấng đặt hạt giống trong người nam,
Ban sự sống cho đứa con trong lòng mẹ,
Vỗ về nó để nó không khóc,
Nuôi dưỡng nó ngay trong dạ,
Ban hơi thở cho mọi sinh linh Ngài nặn ra!
Khi nó ra khỏi thân thể trong ngày sinh,
Ngài mở miệng nó để cất lời,
Ngài cung cấp điều nó cần.
Khi chim non cất tiếng kêu trong trứng,
Ngài ban hơi thở để nó sống còn.
Khi Ngài gom đủ hình hài cho nó
Cho đến khi phá vỏ,
Nó ra khỏi vỏ,
Cất tiếng kêu hết sức mình,
Đi lại trên đôi chân nhỏ
Khi nó ra đời.

Biết bao kỳ công của Ngài!
Ẩn khuất khỏi chúng con,
Hỡi Thần duy nhất, quyền năng không ai có được.
Ngài tạo dựng đất theo lòng Ngài
Khi Ngài chỉ có một mình:
Con người, muôn thú lớn nhỏ,
Mọi loài trên mặt đất,
Đi lại trên đôi chân;
Mọi loài trên cao,
Bay lượn bằng đôi cánh.
Xứ xa xăm, Syria và Kush,
Đất Ai Cập;
Ngài đặt mỗi người vào chỗ của họ,
Ngài cung ứng điều họ cần…

Ngài làm nên dòng Nile trong âm phủ,
Ngài đưa nó lên theo ý Ngài,
Để giữ cho dân sống còn…
Kế hoạch của Ngài tuyệt hảo biết bao,
Hỡi Chúa của vĩnh hằng!
Có một dòng Nile trên trời cho kẻ xa lạ
Và cho muôn gia súc ở các xứ đi lại trên đôi chân…
Tia sáng Ngài nuôi dưỡng mọi vườn tược;
Khi Ngài mọc, chúng sống,
Chúng lớn lên nhờ Ngài.

Ngài làm nên mùa màng
Để sinh ra mọi công trình:
Mùa đông cho chúng mát mẻ,
Mùa hè để chúng nếm trải Ngài.
Ngài đã khiến bầu trời xa xăm vươn lên
Để soi thấy tất cả công trình Ngài dựng nên,
Ngài – duy nhất, tỏa sáng hình hài Aton hằng sống,
Mọc, rực rỡ, đi xa rồi trở lại.

Ngài làm nên muôn vạn hình hài
Từ chính Ngài:
Thành thị, làng mạc, bộ tộc,
Nẻo đường, sông ngòi.
Mọi mắt đều nhìn thấy Ngài trước mặt,
Vì Ngài là Aton của ban ngày trên mặt đất…
Ngài ở trong tim con,
Không ai biết Ngài
Ngoài con trai Ngài – Ikhnaton.
Ngài làm ông khôn ngoan
Trong kế hoạch và sức mạnh của Ngài.

Thế giới ở trong tay Ngài,
Vì Ngài đã tạo ra nó.
Khi Ngài mọc, muôn loài sống,
Khi Ngài lặn, chúng chết;
Vì Ngài là độ dài của sự sống,
Con người sống nhờ Ngài,
Trong khi mắt họ ngắm nhìn vẻ đẹp Ngài
Cho đến khi Ngài lặn.
Mọi lao nhọc được cất đi
Khi Ngài lặn ở phía tây…

Ngài đã dựng nên thế giới,
Nâng nó lên cho con trai Ngài…
Ikhnaton – người sống lâu dài;
Và cho hoàng hậu chính cung, người vợ yêu dấu,
Bà chủ của Hai Vùng Đất,
Nefer-nefru-aton, Nofretete,
Sống và trường tồn mãi mãi.”

Đây không chỉ là một trong những bài thơ vĩ đại của lịch sử, mà còn là biểu hiện xuất sắc đầu tiên của độc thần giáo — bảy trăm năm trước tiên tri Isaia.* Có lẽ, như Breasted gợi ý, quan niệm về một Thượng thần duy nhất này phản chiếu từ việc Thutmose III đã thống nhất thế giới Địa Trung Hải dưới quyền Ai Cập. Ikhnaton hình dung thần của mình là thần chung cho mọi dân tộc, thậm chí còn nêu tên các xứ khác trước cả quê hương mình, như thể đều nằm trong sự chăm sóc của Aton; đó là một bước tiến kỳ diệu so với các vị thần bộ lạc cổ xưa.

Hãy chú ý đến quan niệm đầy sinh lực: Aton không được tìm thấy trong chiến trận hay chiến thắng, mà ở trong hoa lá, cây cối, trong mọi hình thái của sự sống và tăng trưởng; Aton là niềm vui khiến chiên non “nhảy múa trên chân mình,” và chim chóc “xao xác trong đầm lầy.” Thần không phải là một nhân cách bị giới hạn trong hình dáng con người; thần tính thật sự chính là sức nóng sáng tạo và nuôi dưỡng của mặt trời; ánh huy hoàng rực lửa của vầng dương mọc hay lặn chỉ là biểu tượng của quyền năng tối hậu ấy. Tuy vậy, bởi sự hiện diện khắp nơi và ơn phì nhiêu mà mặt trời ban tặng, với Ikhnaton, mặt trời cũng trở thành “Chúa của tình yêu,” người nuôi dưỡng dịu dàng, “tạo nên đứa con trai trong lòng người nữ,” và “đổ đầy Hai Miền Đất Ai Cập bằng tình yêu.” Thế là cuối cùng, qua biểu tượng, Aton lớn lên thành một người cha ân cần, từ ái, dịu dàng; không như Yahveh, một Chúa của Đạo Binh, mà là vị thần của sự hiền hòa và hòa bình.

Một trong những bi kịch của lịch sử là: Ikhnaton, sau khi đạt được thị kiến cao cả về sự hợp nhất phổ quát, lại không đủ kiên nhẫn để để cho phẩm chất cao quý của tôn giáo mới chậm rãi thấm vào lòng người. Ông không biết nhìn chân lý của mình trong tính tương đối; ông cho rằng mọi hình thức tín ngưỡng khác đều là đồi bại và không thể dung thứ. Thình lình, ông hạ lệnh xóa bỏ và đục chạm hết thảy tên các thần khác ngoài Aton trên mọi bia ký công cộng ở Ai Cập; ông chặt bỏ tên cha mình trên hàng trăm đài kỷ niệm để loại đi chữ “Amon”; ông tuyên bố mọi tín điều khác đều bất hợp pháp, và ra lệnh đóng cửa tất cả đền thờ cũ. Ông rời bỏ Thebes vì cho là ô uế, và xây cho mình một kinh đô mới tuyệt đẹp tại Akhetaton — “Thành phố Nơi Chân Trời của Aton.”

Nhanh chóng, Thebes suy tàn khi các cơ quan và bổng lộc của triều đình bị rút khỏi, còn Akhetaton trở thành một đô thị giàu có, nhộn nhịp xây dựng, và là thời kỳ Phục hưng nghệ thuật vừa thoát khỏi xiềng xích truyền thống giáo sĩ. Tinh thần hân hoan của tôn giáo mới tràn sang cả nghệ thuật. Ở Tell-el-Amarna, một ngôi làng hiện đại trên nền kinh đô xưa, Sir William Flinders Petrie đã khai quật được một nền lát tuyệt đẹp, trang trí chim muông, cá và thú vật, vẽ bằng nét uyển chuyển tinh tế.

Ikhnaton cấm nghệ sĩ làm tượng Aton, với lý do cao cả rằng Thượng thần thật sự thì không có hình dáng. Ngoài ra, ông để cho nghệ thuật tự do, chỉ yêu cầu những nghệ sĩ ưa chuộng của mình — Bek, Auta và Nutmose — hãy mô tả sự vật như họ thấy, và quên đi những quy ước của giới tư tế. Họ làm đúng như lời, khắc họa ông như một thanh niên hiền hòa, gần như rụt rè, với chiếc sọ dài lạ lùng. Lấy cảm hứng từ quan niệm sinh lực về thần thánh, họ vẽ mọi hình thái của cây cỏ, động vật bằng chi tiết trìu mến, đạt đến sự hoàn mỹ khó nơi nào, thời nào sánh kịp. Trong một thời gian ngắn, nghệ thuật — vốn luôn biết đến cảnh đói khát và lãng quên — đã nở rộ trong phồn vinh và hạnh phúc.

Nếu Ikhnaton là một tâm trí trưởng thành, hẳn ông đã nhận ra rằng sự thay đổi từ đa thần mê tín, ăn sâu vào nhu cầu và tập quán của dân chúng, sang độc thần tự nhiên, lấy trí tuệ chế ngự trí tưởng tượng, là một bước quá sâu rộng để có thể thực hiện trong một sớm một chiều; ông đã có thể “vội vàng trong chậm rãi,” làm dịu sự chuyển đổi bằng những bước trung gian. Nhưng ông là thi sĩ hơn là triết gia; giống như Shelley tuyên bố sự sụp đổ của Yahveh trước các giám mục Oxford, ông vươn tay chạm đến Tuyệt đối — và kéo cả cơ đồ Ai Cập sụp đổ trên đầu mình.

Chỉ trong một đòn, ông đã tước đoạt và làm xa lánh cả một giai cấp tư tế giàu có và quyền lực, cấm đoán việc thờ phụng những vị thần đã trở nên thân thiết nhờ truyền thống và niềm tin lâu đời. Khi ông đục bỏ chữ Amon khỏi tên cha mình, với dân chúng, đó là sự báng bổ bất kính; chẳng có gì quan trọng hơn việc tôn vinh tổ tiên. Ông đã đánh giá thấp sức mạnh và sự kiên trì của giới tư tế, và đánh giá quá cao khả năng dân chúng để hiểu một tôn giáo tự nhiên. Hậu trường, giới tư tế mưu tính, chuẩn bị; còn trong chốn riêng tư, dân chúng vẫn tiếp tục thờ phụng các vị thần cổ xưa, vô số. Hàng trăm ngành nghề từng lệ thuộc vào các đền thờ thì âm thầm nguyền rủa kẻ dị giáo. Ngay trong cung điện, các quan lại và tướng lĩnh cũng căm ghét ông, mong ông chết đi, vì chẳng phải ông đang để cho Đế quốc tan rã trong tay mình đó sao?

Trong khi ấy, nhà thơ trẻ sống một đời giản dị và tin cậy. Ông có bảy con gái, nhưng không có con trai; và dù luật cho phép ông tìm người nối dõi từ các phi tần, ông đã không làm, mà chọn sự thủy chung với Nofretete. Một món trang sức nhỏ còn lưu lại cho ta thấy ông đang ôm Hoàng hậu; ông cho phép nghệ sĩ khắc họa mình cưỡi xe ngựa qua phố, vui đùa cùng vợ và các con; trong các buổi lễ, Hoàng hậu ngồi cạnh ông và nắm tay ông, trong khi các con gái vui chơi dưới chân ngai. Ông gọi vợ là “Người Chủ của Hạnh Phúc ta, nghe tiếng nàng, Nhà vua hân hoan”; và khi thề, ông dùng câu: “Như lòng ta vui trong Hoàng hậu và các con nàng.” Đó là một quãng đời dịu dàng chen vào bản anh hùng ca quyền lực của Ai Cập.

Trong hạnh phúc đơn sơ ấy, những tin dữ từ Syria dồn đến. Các chư hầu của Ai Cập ở Cận Đông bị người Hittite và các bộ tộc lân bang xâm lấn; các tổng trấn do Ai Cập bổ nhiệm khẩn cầu viện binh ngay lập tức. Ikhnaton do dự; ông không chắc việc chinh phục có đủ chính đáng để giữ các xứ đó dưới quyền Ai Cập; ông cũng không muốn gửi dân Ai Cập chết ở những miền xa xôi vì một lý do quá bấp bênh. Khi các chư hầu nhận ra họ đang đối diện với một vị thánh, họ bèn phế truất các tổng trấn Ai Cập, lặng lẽ ngừng nộp cống, và thực sự trở thành độc lập. Chỉ trong thoáng chốc, Ai Cập thôi là một đế quốc rộng lớn, co lại thành một tiểu quốc. Ngân khố Ai Cập, vốn suốt một thế kỷ trông vào cống phẩm ngoại bang, trở nên trống rỗng; thuế nội địa giảm đến mức tối thiểu, các mỏ vàng ngưng hoạt động. Nội trị hỗn loạn. Ikhnaton thấy mình không tiền bạc, không đồng minh, trong một thế giới từng tưởng thuộc trọn về mình. Mọi thuộc địa nổi loạn, mọi thế lực trong Ai Cập đều chống lại ông, chờ ngày ông sụp đổ.

Ông mới ngoài ba mươi khi, năm 1362 TCN, ông qua đời — tan nát vì nhận ra thất bại của mình với tư cách một nhà cầm quyền, và vì sự bất xứng của chính dân tộc mình.

V. SUY TÀN VÀ SỤP ĐỔ

Tutenkhamon – Công trình của Rameses II – Sự giàu có của giới tăng lữ – Nỗi khốn cùng của dân chúng – Sự chinh phục Ai Cập – Tổng kết những cống hiến của Ai Cập cho văn minh nhân loại

Hai năm sau cái chết của Ikhnaton, con rể ông là Tutenkhamon, kẻ được lòng giới tư tế, lên ngôi. Ông đổi tên từ Tutenkhaton (tên do nhạc phụ đặt cho) thành Tutenkhamon, đưa kinh đô trở lại Thebes, làm hòa với quyền lực của Giáo hội, và tuyên bố với dân chúng hân hoan về sự phục hồi các vị thần cổ xưa. Tên Aton và Ikhnaton bị xóa sạch khỏi mọi công trình tưởng niệm; các tư tế cấm không ai được nhắc đến tên vị vua dị giáo; dân chúng gọi ông là “Kẻ Tội Đồ Vĩ Đại.” Những tên gọi mà Ikhnaton từng xóa bỏ nay được khắc lại trên bia đá, và các lễ hội mà ông từng hủy bỏ nay được cử hành trở lại. Mọi sự đâu lại hoàn đấy.

Phần còn lại, Tutenkhamon trị vì không có gì nổi bật; thế giới hẳn chẳng hề biết đến ông nếu trong mộ ông không tìm thấy kho báu chưa từng có. Sau đó, một viên tướng quả cảm là Harmhab đem quân chinh phạt khắp duyên hải, khôi phục quyền lực bên ngoài và trật tự bên trong cho Ai Cập. Seti I khôn khéo gặt hái thành quả của sự hồi sinh trật tự và giàu có, xây dựng Đại sảnh Hypostyle ở Karnak, khởi công một ngôi đền hùng vĩ trong vách đá tại Abu Simbel, ghi khắc sự huy hoàng của mình bằng những phù điêu tráng lệ, và được hưởng vinh dự ngàn năm yên nghỉ trong một trong những lăng mộ lộng lẫy nhất Ai Cập.

Vào lúc này, Rameses II, vị Pharaoh cuối cùng vĩ đại, bước lên ngai vàng. Lịch sử hiếm khi biết đến một vị quân vương nào rực rỡ đến thế. Đẹp trai và dũng cảm, ông càng thêm lôi cuốn bởi chính sự ý thức trẻ trung về vẻ đẹp của mình; những chiến công mà ông không ngừng khắc ghi chẳng thua kém gì những chiến tích tình ái. Sau khi loại bỏ người anh trai vốn có quyền kế vị, ông gửi quân viễn chinh tới Nubia để khai thác mỏ vàng, bổ sung ngân khố Ai Cập; với nguồn lực ấy, ông tiến hành tái chinh phục các tỉnh châu Á, vốn một lần nữa nổi loạn. Ba năm liền, ông dành cho việc thu phục Palestine; sau đó ông tiến xa hơn, gặp một đại quân liên minh Á Châu tại Kadesh (1288 TCN), và biến bại thành thắng nhờ dũng khí và tài chỉ huy. Có lẽ kết quả của những chiến dịch ấy là một số đông người Do Thái bị đưa vào Ai Cập, làm nô lệ hoặc nhập cư; và một số người tin rằng Rameses II chính là Pharaoh trong Xuất Hành.

Ông cho khắc ghi chiến thắng của mình (dù chẳng mấy công bằng) trên hàng chục bức tường, thuê thi sĩ làm sử thi ca ngợi ông, và tự thưởng cho mình bằng vài trăm người vợ. Khi ông chết, để lại một trăm con trai và năm mươi con gái, đủ làm bằng chứng cho bản lĩnh của ông qua số lượng và tỷ lệ ấy. Ông thậm chí cưới vài người con gái, để họ cũng sinh ra những đứa trẻ huy hoàng. Hậu duệ của ông đông đến mức trong bốn trăm năm đã hình thành một tầng lớp đặc biệt ở Ai Cập, trong đó suốt hơn một thế kỷ, các vị vua được chọn ra.

Ông xứng đáng được hưởng những an ủi ấy, bởi dường như ông đã trị vì Ai Cập rất tốt. Ông xây dựng xa hoa đến mức một nửa công trình còn sót lại ở Ai Cập được gán cho triều đại ông. Ông hoàn tất đại sảnh chính ở Karnak, xây thêm đền Luxor, dựng nên đền thờ vĩ đại của riêng mình là Ramesseum ở phía tây sông Nile, hoàn thành thánh điện khổng lồ ở Abu Simbel, và rải khắp đất nước những tượng khổng lồ của chính mình. Thương mại dưới thời ông hưng thịnh, cả qua eo đất Suez lẫn trên Địa Trung Hải. Ông đào thêm một kênh nối sông Nile với Biển Đỏ, nhưng cát lấp kín ngay sau khi ông qua đời. Năm 1225 TCN, ở tuổi chín mươi, ông trút hơi thở sau một trong những triều đại lẫy lừng nhất lịch sử.

Chỉ có một quyền lực trong Ai Cập vượt trên ông: đó là giới tăng lữ. Ở đây, cũng như khắp lịch sử, vẫn là cuộc tranh chấp bất tận giữa giáo hộinhà nước. Trong suốt triều đại ông và các vị kế vị gần kề, chiến lợi phẩm từ mọi cuộc chiến, cùng phần lớn thuế thu từ các tỉnh bị chinh phục, đều chảy vào tay đền thờ và giới tư tế. Đỉnh cao của sự giàu có này diễn ra dưới thời Rameses III. Khi ấy họ sở hữu 107.000 nô lệ — tức một phần ba mươi dân số Ai Cập; họ chiếm giữ 750.000 mẫu đất — một phần bảy tổng diện tích canh tác; họ sở hữu 500.000 đầu gia súc; họ hưởng nguồn thu từ 169 thị trấn ở Ai Cập và Syria; và tất cả khối tài sản ấy đều miễn thuế.

Vị vua hào phóng (hay yếu đuối) Rameses III đã ban tặng cho giới tư tế Amon những món quà chưa từng có: 32.000 kg vàng1.000.000 kg bạc; mỗi năm ông còn cấp cho họ 185.000 bao ngũ cốc. Đến lúc phải trả công cho thợ thuyền làm việc cho nhà nước, ông phát hiện ra ngân khố của mình đã trống rỗng. Càng ngày dân chúng càng đói khát để cho các thần được ăn no.

Với chính sách ấy, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi các Pharaoh biến thành kẻ phục dịch giới tư tế. Dưới triều vị vua Ramessid cuối cùng, Thượng tế Amon tiếm ngôi, trị vì công khai như một quân vương tối thượng; đế quốc trở thành một thần quyền trì trệ, nơi kiến trúc và mê tín phát triển, còn mọi yếu tố khác của đời sống quốc gia thì suy tàn. Những điềm triệu được dàn dựng để ban “sắc lệnh thần thánh” cho mọi quyết định của giới giáo sĩ. Các sức mạnh sống còn của Ai Cập bị rút kiệt bởi cơn khát của các thần, đúng vào lúc những kẻ xâm lược ngoại bang đang chuẩn bị tràn xuống cướp lấy toàn bộ của cải tích tụ ấy.

Trong khi đó, trên mọi biên giới đều dấy lên hiểm họa. Sự thịnh vượng của Ai Cập phần nào đến từ vị trí chiến lược trên tuyến giao thương chính của Địa Trung Hải; các kim loại và của cải của nó đã giúp nó làm chủ Libya ở phía tây, cũng như Phoenicia, Syria và Palestine ở phía bắc và phía đông. Nhưng nay, ở đầu kia của tuyến thương mại ấy — tại Assyria, Babylon và Ba Tư — những dân tộc mới đang trưởng thành và trở nên hùng mạnh, tự củng cố bằng phát minh và sự dấn thân, và dám cạnh tranh trong thương nghiệp và kỹ nghệ với người Ai Cập vốn tự mãn và mộ đạo. Người Phoenicia đang hoàn thiện chiến thuyền ba tầng chèo, và nhờ nó dần dần giành lấy quyền kiểm soát biển cả từ tay Ai Cập. Người Dorian và Achaean đã chinh phục Crete và vùng biển Aegean (khoảng năm 1400 TCN), và đang thiết lập một đế chế thương mại riêng; thương mại ngày càng ít đi bằng những đoàn lữ hành chậm chạp vượt núi rừng và sa mạc đầy cướp bóc ở Cận Đông, mà ngày càng nhiều đi bằng đường thủy, ít tốn kém và ít tổn thất hơn, qua Hắc Hải và Aegean đến Troy, Crete và Hy Lạp, cuối cùng đến Carthage, Ý và Tây Ban Nha. Các dân tộc dọc bờ bắc Địa Trung Hải nở rộ phồn vinh, trong khi các dân tộc bờ nam tàn lụi và mục rữa. Ai Cập mất dần thương mại, vàng bạc, quyền lực, nghệ thuật, và sau cùng là cả niềm kiêu hãnh; từng đối thủ một tràn xuống đất Ai Cập, quấy phá và chinh phục nó, rồi để lại hoang tàn.

Năm 954 TCN, người Libya từ núi phía tây tràn vào, chém giết hung hãn; năm 722, người Ethiopia từ phương nam kéo lên, báo thù cho kiếp nô lệ xưa; năm 674, người Assyria từ phương bắc tràn xuống, bắt Ai Cập bị giáo quyền thống trị phải nộp cống. Một thời gian, Psamtik, vương tử thành Saïs, đã đẩy lùi quân xâm lược và tập hợp Ai Cập lại dưới quyền lãnh đạo của mình. Trong triều đại lâu dài của ông, và cả những vị kế tục, đã xuất hiện cuộc “Phục hưng Saïte” của nghệ thuật Ai Cập: các kiến trúc sư, điêu khắc gia, thi sĩ và học giả Ai Cập gom góp lại kỹ thuật và truyền thống thẩm mỹ của trường phái mình, và chuẩn bị dâng chúng lên cho người Hy Lạp. Nhưng đến năm 525 TCN, người Ba Tư dưới quyền Cambyses vượt qua Suez, và một lần nữa chấm dứt nền độc lập của Ai Cập. Năm 332 TCN, Alexander từ châu Á tiến ra, biến Ai Cập thành một tỉnh của xứ Macedon. Năm 48 TCN, Caesar đến chiếm thủ đô mới của Ai Cập là Alexandria, và ban cho Cleopatra một đứa con trai và người thừa kế mà họ đã hy vọng sẽ đội vương miện thống nhất những đế quốc hùng mạnh nhất thời cổ. Năm 30 TCN, Ai Cập trở thành một tỉnh của La Mã, và biến mất khỏi lịch sử.

Đã có lúc Ai Cập hồi sinh khi các ẩn sĩ lấp đầy sa mạc, và khi Cyril lôi Hypatia ra chết nơi đường phố (415 SCN); và lại hồi sinh khi người Hồi giáo chinh phục nó (khoảng 650 SCN), xây dựng Cairo từ tàn tích Memphis, và lấp đầy thành phố bằng những thánh đường vòm sáng rực và các thành lũy. Nhưng đó là những nền văn hóa ngoại lai, không thật sự thuộc về Ai Cập, và chúng cũng lần lượt phai tàn. Ngày nay vẫn còn một xứ sở mang tên Ai Cập, nhưng người Ai Cập không làm chủ ở đó; từ lâu họ đã bị khuất phục bởi xâm lăng, và đã hòa trộn ngôn ngữ và hôn nhân với những kẻ chinh phục Ả Rập; các thành phố của họ chỉ còn biết đến quyền lực của người Hồi giáo và người Anh, và dấu chân những kẻ hành hương mệt mỏi vượt ngàn dặm để rồi nhận ra rằng Kim Tự Tháp chỉ là những đống đá. Có lẽ sự vĩ đại có thể lại trỗi dậy nếu châu Á một lần nữa giàu có, và biến Ai Cập thành trạm trung chuyển của thương mại toàn cầu. Nhưng về tương lai, như Lorenzo đã hát, không gì chắc chắn; còn hôm nay, điều chắc chắn duy nhất chính là sự tàn phai. Tứ phía là những tàn tích khổng lồ, đền đài và mồ mả, chứng tích của một sức sống dữ dội và khổng lồ; tứ phía là đói nghèo, hoang tàn, và sự cạn kiệt của một dòng máu cổ xưa. Và tứ phía là cát thù địch, nhấn chìm, mãi mãi bị gió nóng thổi dạt, quyết liệt che phủ tất cả sau cùng.

Tuy nhiên, cát chỉ hủy diệt thân xác của Ai Cập cổ đại; còn tinh thần của nó vẫn sống trong ký ức và di sản của nhân loại. Sự cải tiến trong nông nghiệp, luyện kim, công nghiệp và kỹ thuật; việc phát minh ra thủy tinh và vải lanh, giấy và mực, lịch và đồng hồ, hình học và bảng chữ cái; sự tinh luyện trong y phục và trang sức, trong đồ đạc và nhà cửa, trong xã hội và cuộc sống; sự phát triển kỳ lạ của một chính quyền trật tự và hòa bình, của thống kê dân số và bưu chính, của giáo dục sơ cấp và trung cấp, thậm chí cả đào tạo chuyên môn cho chức vụ và hành chính; bước tiến của chữ viết và văn học, của khoa học và y học; sự hình thành rõ rệt đầu tiên mà ta biết về lương tâm cá nhân và công cộng, tiếng kêu đầu tiên đòi công bằng xã hội, chế độ một vợ một chồng đầu tiên, độc thần giáo đầu tiên, những thử nghiệm đầu tiên về triết học luân lý; sự nâng cao kiến trúc, điêu khắc và mỹ nghệ lên mức xuất sắc và quyền năng chưa từng có trước đó (theo hiểu biết của ta), và hiếm khi đạt được kể từ sau: tất cả những cống hiến ấy không hề bị mất đi, ngay cả khi những tác phẩm tuyệt vời nhất bị chôn vùi dưới sa mạc, hoặc bị quật đổ bởi cơn biến động toàn cầu.

Qua người Phoenicia, người Syria và người Do Thái, qua người Crete, Hy Lạp và La Mã, nền văn minh Ai Cập đã được truyền lại để trở thành một phần trong di sản văn hóa nhân loại. Ảnh hưởng hay ký ức về những gì Ai Cập đạt được vào buổi bình minh của lịch sử đã tác động đến mọi dân tộc, mọi thời đại. “Thậm chí có thể,” như Faure đã nói, “rằng Ai Cập, qua sự đồng nhất, sự thống nhất, và sự phong phú kỷ luật của các sản phẩm nghệ thuật, qua khoảng thời gian khổng lồ và sức mạnh bền bỉ của nỗ lực, đã phô bày quang cảnh của nền văn minh vĩ đại nhất từng xuất hiện trên trái đất.” Chúng ta sẽ làm điều tốt nếu đạt đến được như vậy.

5/5 - (1 vote)

DONATE

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM