Trước khi người Pháp đặt ách chinh phục, Nam Kỳ (và phần An Nam chịu bảo hộ sau này) có một mạng lưới học đường bản xứ khá rõ ràng. Mỗi làng thường có một trường tư (école libre) do “nhiêu-học” trông coi, mở không cần xin phép. Học trò học lễ giáo và văn học Trung Hoa, tập tứ số căn bản, tập viết chữ Nho (Hán văn) và chữ Nôm (mượn chữ Hán ghi âm tiếng Việt).
Lên cấp huyện, phủ, có trường trung học bản xứ – thực chất nới rộng nội dung cấp làng. Đốc học điều hành trường phải có học vị cao (Tiến sĩ, Tú tài), và hệ thống quan học chính (thanh tra tỉnh, do triều đình bổ nhiệm) đi giám sát. Ba tháng một lần, trường làm luận văn theo lệnh Tổng đốc; sáu tháng lại sát hạch để chọn sĩ tử đi thi Hương (Tú tài), thi Hội (Cử nhân/tiến sĩ) theo chu kỳ ba năm. Đề thi thường xoay quanh kinh nghĩa và văn chương.
Đỉnh tháp là Quốc Tử Giám – dưới quyền Bộ Lễ – vừa ghi chép biên niên, vừa điều hành học chính. Ở bậc cao, chương trình gần như thuần Hán học; toán – khoa học bị loại ra khỏi vòng thi cử (ai cần thì tự học ngoài). Hoàng tộc có hệ thống giáo dục riêng.
Chữ Quốc ngữ và “trường đạo”
Ngay khi đến truyền giáo, các giáo sĩ phương Tây ghi âm tiếng Việt bằng chữ La-tinh: đó là chữ Quốc ngữ. Họ dựng trường học cạnh nhà xứ, đào tạo giáo lý viên, thông ngôn giáo vụ, đôi khi linh mục bản xứ. Tiếng Pháp lúc này hiếm người học; mục tiêu chính là đọc – viết tiếng Việt bằng mẫu tự La-tinh, cộng chút La-tinh giáo hội.
Vì thế, khi Đô đốc Rigault de Genouilly chiếm Sài Gòn (17.2.1859), đã có sẵn trường chủng viện và trường Bá Đa Lộc (Adran) do Hội Truyền giáo Nước ngoài lập – nền tảng cho việc tuyển thông ngôn đầu tiên phục vụ quân đội chiếm đóng.
Thời chiến chinh, đô đốc viễn chinh chưa thể tổ chức giáo dục quy mô; việc cấp thiết là đào tạo thông ngôn. Năm 1861, có kỳ sát hạch thông ngôn; trường dạy tiếng An Nam cho người Pháp được mở ở Sài Gòn (8.5.1862). Sau chín tháng, thi đỗ thì làm aide-interprète, trượt về đơn vị. Đây là đào tạo hành chính, không phải giáo dục phổ thông.
Trong khi ấy, trường làng bản xứ nhiều nơi đóng cửa vì chiến sự; đời sống tinh thần người dân thiếu chỗ bấu víu. Sau một năm tại chỗ, Đô đốc Bonnard nhìn ra lợi ích tạm thời của hệ thống cũ, khôi phục nó dưới chánh tham biện (inspecteur des affaires indigènes), bao gồm cả học chính.
Phục dựng khuôn cũ (1863–1864)
Nghị định 31.3.1863 tái lập đốc học – giáo thọ – huấn đạo, định lại các bậc học, phục hồi kỳ thi ba năm (khóa đầu 1864), và bổ nhiệm thông ngôn dạy chữ Quốc ngữ bên cạnh viên chức học chính bản xứ. Quốc ngữ chưa bắt buộc, nhưng được ưu tiên trong thi cử. Kinh phí: ngân sách tỉnh và hàng tổng.
Chưa đầy một năm, Đô đốc Lagrandière (18.7.1864) mở trường tiểu học chữ mẫu tự Âu tại các tỉnh lị, giao thông ngôn – thư ký dạy 2 giờ/ngày. Miễn học phí, cấp sách vở, thanh tra do chính quyền. Thưởng tiền nhỏ cho học sinh viết–đọc tốt. Chữ Quốc ngữ dần lan tỏa, nhưng tiếng Pháp vẫn chưa phổ biến.
Nhằm dạy tiếng Pháp bài bản, Lagrandière lập trường Pháp ở Sài Gòn (1.2.1866), giao cho tu sĩ điều hành (trong khuôn viên Bá Đa Lộc). Học bổng tăng, thể thức rõ ràng. Từ đây, giáo dục tiếng Pháp cho người bản xứ bám rễ – trong tay nhà dòng. Trường Mỹ Tho, Chợ Lớn, Vĩnh Long lần lượt có cơ sở giáo hội với học bổng thuộc địa (1867–1871). La Sainte-Enfance dạy nữ sinh – hiếm có thời đó.
Đồng thời, dân Âu tại thuộc địa tăng nhanh. Năm 1868, theo đề nghị Hội đồng tỉnh, Sài Gòn mở école municipale phi tôn giáo (laïque) cho con em người Âu: một lớp sơ đẳng miễn phí, lớp cao đẳng có học phí, thêm ngoại ngữ/La-tinh/Hy Lạp theo nhu cầu. Một trường thông ngôn Âu (kế thừa collège annamite) kề bên để dạy Pháp văn, và lớp người lớn (adulte) cho residents và người bản xứ.
Từ “đạo” sang “nhà nước”
Sắc lệnh 22.3.1867 giao Luro thanh tra các trường tiểu học đang tăng cấp số; 7.5.1867 mở kỳ thi tuyển vào ngạch giáo dục bản xứ (có lương). Chương trình đơn giản nhưng thực dụng: quốc ngữ, bốn phép tính, đo lường; hạng cao thêm dịch thuật.
Trường người lớn (Cần Thơ, Sóc Trăng, Gò Công, Tân An, Rạch Giá…) mọc lên (1869). Ủy ban biên soạn văn phạm – từ điển học tiếng Pháp (đứng đầu Miche, có Philastre đại diện chính quyền), độc quyền phát hành cho trường bản xứ (Poteaux).
Từ đây, giáo dục thuộc địa vừa hành chính hóa, vừa phổ cập hóa theo hướng song ngữ: quốc ngữ để bước vào lớp, pháp văn để đi lên hệ thống.
Bước rẽ 1871–1874
Sau biến động ở Pháp, tinh thần tự do chủ nghĩa (libéral) trỗi dậy. Đô đốc Dupré (10.7.1871) lập trường sư phạm bản xứ (école normale coloniale indigène) kèm trường tiểu học thực hành; hiệu trưởng – giáo sư phải có bằng cấp, giáo viên bản xứ hạng nhất làm phụ giáo. 60 nội trú được bao cấp hoàn toàn, có trợ cấp nhập học.
Ủy ban chương trình được lập, chuẩn hóa thi cử (31.7.1871): hai bậc bằng (sơ – cao đẳng bản xứ) gắn với ngạch – lương – thăng tiến. 1874, Dupré ban nghị định tổ chức lại hệ thống: giáo dục công cộng miễn phí – tự do, theo khung điều lệ Pháp, đặt dưới Chánh nội vụ; có ủy ban thường trực (nhà nước – trường công – trường đạo) theo dõi, đề xuất cải tiến.
Các trường chữ Nho làng bị gom – chuyển thành trường chữ mẫu tự La-tinh ở đô thị. Sáu trung tâm lớn (Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc Trăng) có trường Pháp với hiệu trưởng người Pháp (ưu tiên biết tiếng An Nam), nội trú có học bổng, ngoại trú tự do. Sau 3 năm, thi ra trường: khá thì vào công chức hạ ngạch, giỏi thì lên collège indigène (thay école normale), 120 nội trú với học bổng.
Dù tu sĩ còn ảnh hưởng, xu hướng “laïque hóa” đã định hình: chuyên môn – quy chế – bằng cấp ngày càng thuộc quyền nhà nước.
Nghị định 17.3.1879
Sau các bước chuẩn hóa, ngày 17.3.1879 ban hành nghị định “organique”. Hệ thống chia ba cấp:
- Cấp 1: sơ học Pháp văn – 3 năm, nghe – nói – đọc – viết đơn giản, bốn phép tính.
- Cấp 2: nới rộng Pháp văn, số học – hình học ứng dụng.
- Cấp 3: Pháp văn nâng cao, thêm vật lý – toán – khoa học tự nhiên; không có sử, kể cả sử Nam Kỳ.
Cùng lúc, khung tổ chức – thăng hạng – giám sát cho nhân viên Âu – bản xứ được định; giám đốc nha học chính dưới Chánh nội vụ và một ủy ban thường trực cấp cao. Các écoles cantonales (trường hàng tổng) được mở để phổ biến nhanh chữ Quốc ngữ; trường trung học Mỹ Tho ra đời (1880). Trường đạo dần thu hẹp: Mỹ Tho, Vĩnh Long đóng (1881), Bá Đa Lộc rút (1883). Giám sát giáo dục chuyển sang nhà nước, giáo dục nam sinh gần như toàn bộ phi tôn giáo; còn lại Taberd và hai chủng viện đặc thù.
Bùng nở – chao đảo (1880–1889)
Số học sinh tăng nhanh, trường mở liên tiếp (Tây Ninh, Gò Công, Sa Đéc, Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Cần Thơ…). Thanh tra tăng, giáo sư Âu lên tới 80 rồi lại giảm vì điều chuyển. Năm 1888, bãi Nha học chính: quyền phân tán cho địa hạt – tổng thư ký – phòng hành chính, giáo sư cố vấn không rõ thẩm quyền; thanh tra bị bỏ. Nhân viên Pháp còn 61, trong đó nhiều người vắng mặt; trường 200 học sinh đôi khi chỉ có 1 giáo sư. Hai trường phải giao cho giáo viên An Nam.
Chương trình 1879 bị “phá vỡ mềm”: cấm dùng tiếng bản xứ trong lớp do hai “trường phái” từ Pháp đem sang, khiến giáo sư Pháp (không biết tiếng Việt) dạy lớp toàn trò không biết tiếng Pháp – hiệu quả thấp. Để giữ chỉ tiêu, chuẩn thi buộc hạ thấp. Giáo viên bản xứ giỏi rời ngành vì thăng hạng chậm và mất đầu mối chuyên môn.
Thông điệp nổi lên rất rõ: phải tái lập Nha học chính, đặt vào tay người vừa rành nghiệp vụ, vừa hiểu bản xứ; kéo lại ủy ban học chính có đại diện nhà nước – địa phương – giới giáo dục – nhân sĩ – cựu công chức bản xứ.
Kế hoạch cải chính mà giới hữu trách gợi ý lúc bấy giờ khá “hiện đại” khi nhìn dưới lăng kính giáo dục song ngữ:
- Đặt nền ở écoles cantonales (trường hàng tổng) gần gia đình.
- Dạy đọc – viết – tính bằng quốc ngữ; giải thích khoa học thường thức bằng tiếng Việt; từng bước xây vốn từ Pháp qua dịch – ghi bảng – ám tả.
- Nhập môn đo lường mét, so sánh hệ bản xứ – Pháp, bài toán lãi suất đơn giản; địa dư Đông Dương, vài khái niệm sử An Nam; duy trì chữ Nho ở mức nền tảng.
Sau 3–4 năm, hiệu trưởng trường địa hạt (người Pháp) tuyển học sinh khá vào trường Pháp cấp 2 tại thị xã; ai không theo tiếp thì trở về đời sống với kỹ năng nền (đọc – viết – tính – kiến thức thực dụng). Cấp 2 học theo nghị định 1879 (2e degré), cuối kỳ thi certificat d’études; cân nhắc đưa nghề – nông vào chương trình để giảm “sính công chức”, khuyến khích lao động kỹ năng.
Cấp 3 nới rộng khoa học – Pháp văn, mở phân ban chuyên: nông – kỹ thuật, sư phạm, hành chính (cho Nam Kỳ và cả Đông Dương đang thiếu nhân lực). Có thể tổ chức chung cơ sở để tiết kiệm, chung giảng phần lõi, khác xưởng – thực hành. Lớp con em người Âu/Con lai có thể dùng chung khuôn viên (nhà ăn, ngủ tách riêng), như mô hình Algérie, Tunisie, Inde.
Điểm then chốt của kế hoạch: tiếng Việt làm cầu nối, Pháp văn làm đích năng lực; gần dân – gần nghề – gần nhu cầu hành chính, thay vì áp mô hình thuần mẫu quốc vào ngữ cảnh khác biệt.
Kết lại
Trong ba thập niên, giáo dục Nam Kỳ đi một vòng rất lớn: từ trường làng – chữ Nho – khoa cử, sang chữ Quốc ngữ – trường đạo, rồi école laïque – chương trình quy chuẩn – thi cử bản xứ. Có lúc đẩy nhanh, có khi chao đảo, nhưng xu hướng chung là phi tôn giáo hóa quản trị, hành chính hóa tiêu chuẩn, và đưa quốc ngữ vào nền tảng để bắc cầu sang Pháp văn.
Khi đọc lại chặng đường ấy, ta thấy rõ một chân lý giáo dục giản dị: muốn đi xa, phải đi từ tiếng mẹ đẻ và từ thực tế đời sống. Chỉ khi nào đứa trẻ nghe – hiểu – đọc – viết được những điều gần gũi, việc học ngoại ngữ – khoa học – kỹ thuật mới đứng vững. Và chỉ khi nhà trường chạm đất – ở trường hàng tổng, làng – tổng – tỉnh – thì học vấn mới thành lực đẩy cho cả guồng máy thuộc địa (khi ấy) và xã hội bản xứ (về sau).









































