Thiên Chúa đã cảnh báo người Israel đừng thờ Baal. Thế nhưng, với tần suất đáng ngạc nhiên, họ lại rời bỏ giao ước để chạy theo vị thần Canaan này. Trong văn hóa Canaan, có nhiều thần địa phương mang tên Baal; hơn nữa, đây còn là tước hiệu có nghĩa là “chủ” hay “chúa tể,” nên có thể dùng cho bất kỳ vị thần nào—ngữ cảnh sẽ cho biết nói đến ai. Về sau, Hadad (Baal Hadad) ngày càng thường được gọi ngắn gọn là Baal. Việc thờ Baal trở thành một điểm yếu trầm trọng của người Israel, xoay quanh tà dâm nghi lễ, và trong những thực hành ghê tởm nhất có cả hiến tế người.
“Baal”: tên riêng hay tước hiệu?

Trong các ngôn ngữ Semit, baʿal là một tước hiệu nghĩa là “chủ,” “chúa,” hay “người sở hữu.” Vì vậy, nhiều dân tộc vùng Levant dùng từ này để chỉ thần linh của họ; đôi khi, nó cũng dùng cho con người nắm quyền lực.
Nhiều địa danh cũng chứa từ Baal. Trong tiếng Hê-brơ, từ này thường đi kèm mạo từ xác định “ha-” (“the Baal”), càng củng cố việc đây là tước hiệu, không nhất thiết là tên riêng.
Chứng cứ khảo cổ và văn bản cổ cho thấy tước hiệu Baal đặc biệt chỉ thần mưa, bão và phì nhiêu tại Levant—nơi người Canaan và Phoenicia sinh sống.

Giữa Hadad và Baal có mối liên hệ chặt chẽ, thường gọi là Baal Hadad, dùng thay thế cho nhau. Hadad đã hiện diện tại Canaan từ khoảng 2500 TCN. Về sau, do người Amorite di cư, việc thờ Baal Hadad lan đến Lưỡng Hà; ở đó, Hadad được gọi là Adad (tiếng Akkad). Chu kỳ Baal (Epic of Baal) gọi ông là Baal Hadad, thuật lại các cuộc đối đầu giữa Baal với Yam (thần biển/ hỗn mang) và Mot (thần âm phủ).
Trong biểu tượng, Baal Hadad thường cầm rìu, chùy, kiếm hoặc tia sét cùng gậy quyền; đôi khi gắn với con bò, nhấn mạnh sức mạnh sinh sản, uy lực và sức sống.
Đáng chú ý, Thiên Chúa (YHWH) cũng từng được gọi là “Baal” theo nghĩa “chủ” trước khi từ này trở thành tên riêng của thần Canaan. Ngôn sứ Hôsê ghi: “Trong ngày đó… ngươi sẽ gọi Ta là ‘Phu quân của con,’ chứ không còn gọi Ta là ‘Baal của con’” (Hs 2:19 [2:16]). Ở đây, Thiên Chúa bày tỏ ước muốn liên hệ phu thê với dân Người—không phải mối quan hệ chủ-tớ lạnh lùng.
Việc thờ Baal trong thế giới Canaan

Ngay từ Sáng Thế, Baal đã xuất hiện trong tên riêng của các vua (như Baal-Hanan, St 36:38–39). Địa danh mang dấu vết thờ Baal cũng phổ biến (Baal-Siphon: Xh 14:2; Bamoth-baal: Ds 22:41).
Tín đồ Baal gắn ông với mùa mưa, giông bão và sự phì nhiêu. Khác Ai Cập—nơi sông Nile tưới tiêu quanh năm—Canaan phụ thuộc mưa theo mùa. Người Canaan tin rằng vào mùa khô, Baal xuống âm phủ giao chiến với Mot (Tử thần); vì vắng mặt/ ngủ yên, trời hạn. Khi Baal thắng Mot, ông trở về, mưa rơi, đem mùa màng và sự sống.

Trong tư duy Canaan, Baal là nguồn sức mạnh đằng sau sự phì nhiêu của đất đai, gia súc và con người. Vì gắn với sinh sản, việc thờ Baal bao gồm hành vi tình dục nghi lễ; điếm thờ là đặc trưng. Dân Số 25:1–3 cho thấy người Israel bị dụ dỗ: họ tà dâm với phụ nữ Mô-áp, ăn của lễ và sấp mình trước thần của họ, “liên kết với Baal Phê-o,” khiến cơn giận của Đức Chúa bừng bừng.
Việc thờ Baal có hiến tế súc vật (bò đực, chiên), lễ vật ngũ cốc, rượu tế, yến tiệc với ăn uống, dâm loạn. Bằng chứng Kinh Thánh, khảo cổ và văn bản cổ cho thấy trong lúc túng quẫn, người ta còn hiến tế người. Nhiều học giả xem 2V 3:27 (vua Mô-áp hiến trưởng nam làm toàn thiêu trên tường thành) là ví dụ.
Baal đối đầu YHWH

Thiên Chúa thường xuyên cảnh cáo dân Người về việc thờ Baal và các thần Canaan. Người Israel lẽ ra phải tiêu diệt các dân ngoại trong Đất Hứa; vì không vâng lời, những kẻ thờ Baal ở lẫn giữa họ.
Ngay sau cái chết của Giô-suê, Israel bội giáo. Tl 2:11, 13: “Con cái Israel làm điều ác trước mặt Đức Chúa và phụng sự các Baal… Họ bỏ Đức Chúa và phục vụ các Baal và Astarte.” (Astarte/Ashtaroth là phối ngẫu nữ của Baal.)
Thiên Chúa truyền Ghê-đê-ôn đập phá bàn thờ Baal và cột Asherah bên cạnh (Tl 6:25–32). Dân muốn giết ông; ông được gọi là Giê-ru-baal (“Để Baal tự tranh luận với nó”). Dù Ghê-đê-ôn mạnh tay chống bái thần, sau khi ông mất, Israel lại “đi làm điếm theo các Baal,” tôn Baal-Berith (Tl 8:33). Dạng số nhiều “các Baal” củng cố ý niệm Baal là danh xưng chung cho nhiều thần Canaan.

Đỉnh điểm thờ Baal diễn ra dưới thời Ahab, vua Israel, khi ông cưới Giê-dê-ben, con gái Êt-baal vua Sidon (theo Giusephus, Êt-baal từng là tư tế Baal trước khi soán ngôi). Giê-dê-ben cổ vũ việc thờ Baal; nhiều người theo gương vua mà bội giáo.
Ngôn sứ Êlia đối đầu Giê-dê-ben. Trên Cáctmêl, các tư tế Baal bất lực cầu lửa thiêu của lễ; Êlia tưới nước đầy bàn thờ của mình, và Đức Chúa sai lửa xuống thiêu rụi của lễ và cả bàn thờ. Êlia truyền dân hạ sát các tư tế Baal tại suối Kison; rồi mưa đổ xuống theo lời khấn của ông, cho thấy YHWH mới là Chúa tể thiên nhiên, chứ không phải thần bão Baal (1V 18:20–46).
Ahaziah, con Ahab, lên ngôi tiếp tục thờ Baal (1V 22:53). Khi bị thương, ông sai hỏi Baal-zebub (Chúa của ruồi) về bệnh tình; Êlia báo án tử (2V 1). Giô-ram, con khác của Ahab, cũng duy trì việc thờ Baal.
Về sau, Giê-hu lên ngôi, tiêu diệt dòng dõi Ahab và các tư tế/ ngôn sứ Baal để nhổ tận gốc bái thần (2V 10). Ông giả vờ sẽ thờ Baal nhiệt thành hơn, triệu tập mọi tu sĩ và tín đồ, rồi đóng cửa và tàn sát, phá đền Baal.
Tiếc rằng vòng lặp bội giáo lại tái diễn. Dưới vua Hôsê, việc thờ Baal nở rộ, và không lâu sau, Israel lưu đày khi Axxiria chinh phục (2V 17).
Tại Giuđa, tình hình cũng không khá hơn. Vua Manasse tái thiết miếu thờ mà cha ông từng phá. Con ông là Amon noi gương. Mãi đến vua Giôsia, cải cách triệt để mới diễn ra (2V 23:4–6…). Sau khi ông băng, Giêhôahát và Giêhôiakim lại bội giáo, tái lập các tập tục kiểu Ahab. Một nguyên nhân chính đưa Giuđa vào lưu đày là thờ thần khác, trong đó Baal nổi bật nhất.

Kết luận
Trong Kinh Thánh, Baal vừa là tước hiệu (“chủ,” “chúa tể”), vừa trở thành tên gọi của thần bão – mưa – phì nhiêu Hadad trong văn hóa Canaan–Phoenicia. Việc thờ Baal, với tình dục nghi lễ và đôi khi hiến tế người, nhiều lần cám dỗ Israel—từ thời Các Thủ Lãnh đến các vương triều Ahab, Ahaziah, rồi nữa—và luôn bị ngôn sứ cũng như các nhà cải cách (Êlia, Giê-hu, Giôsia…) chống lại. Câu chuyện Baal trong Kinh Thánh là lời cảnh tỉnh về sức hút của đồng hóa tôn giáo – văn hóa, và hậu quả của việc rời xa giao ước với Thiên Chúa.









































