Blog Lịch Sử

Văn hóa và Người Sumer

Dưới đây là bản dịch nguyên văn từ sách Story of Civilization, tập 1 - Orient Heritage, của Sử gia Will Durant

Nguồn: Will Durant
5 views
hinh anh vua sumer

Khởi hướng – Những đóng góp của Cận Đông cho nền văn minh phương Tây

Lịch sử thành văn đã có ít nhất sáu ngàn năm tuổi. Trong một nửa quãng thời gian ấy, trung tâm của mọi sinh hoạt nhân loại – trong chừng mực ta hiện biết được – chính là vùng Cận Đông. Với khái niệm mơ hồ này, ở đây ta hiểu là toàn bộ vùng Tây Nam Á nằm về phía nam nước Nga và Biển Đen, và phía tây Ấn Độ cùng Afghanistan; mở rộng hơn nữa, ta cũng bao gồm cả Ai Cập, vốn từ thời xa xưa đã gắn bó mật thiết với Cận Đông trong một tấm lưới rộng lớn và phức hợp của nền văn minh phương Đông.

Chính trên sân khấu chật hẹp nhưng đông đúc các dân tộc và nền văn hóa xung đột ấy mà con người đã khai sinh nông nghiệp và thương mại, ngựa và xe kéo, tiền tệ và tín phiếu, nghề thủ công và công nghiệp, luật pháp và chính quyền, toán học và y học, thuốc xổ và hệ thống thoát nước, hình học và thiên văn học, lịch và đồng hồ cùng hoàng đạo, bảng chữ cái và chữ viết, giấy và mực, sách vở cùng thư viện và trường học, văn chương và âm nhạc, điêu khắc và kiến trúc, gốm men và đồ gỗ tinh xảo, độc thần giáo và chế độ một vợ một chồng, mỹ phẩm và trang sức, cờ bàn và xúc xắc, trò ném ki và thuế thu nhập, vú nuôi và bia – tất cả từ đó đã được truyền qua Crete, Hy Lạp và La Mã, tạo thành dòng chảy nối tiếp không ngừng để rồi trở thành nền văn hóa Âu – Mỹ hôm nay.

Người “Arya” không sáng tạo ra văn minh – họ tiếp nhận nó từ Babylon và Ai Cập. Hy Lạp cũng không khởi đầu văn minh – họ thừa hưởng nhiều hơn là sáng tạo; Hy Lạp chính là đứa con được nuông chiều, thừa kế ba nghìn năm thành tựu nghệ thuật và khoa học đã được đem đến các thành thị của họ nhờ những biến động của thương mại và chiến tranh. Khi nghiên cứu và tôn vinh Cận Đông, chúng ta đang bày tỏ lòng biết ơn đối với những người sáng lập thực sự của nền văn minh Âu – Mỹ.


I. ELAM

Nền văn hóa của Susa – Bàn xoay gốm – Bánh xe ngựa

Nếu độc giả nhìn vào bản đồ Ba Tư, lần ngón tay từ Vịnh Ba Tư ngược dòng sông Tigris lên đến Amara, rồi rẽ sang phía đông, vượt qua biên giới Iraq tới thị trấn hiện đại Shushan, tức là đã định vị được nơi từng là thành cổ Susa, trung tâm của một vùng đất mà người Do Thái gọi là Elam – nghĩa là “vùng đất cao”. Trong dải đất hẹp này, được bảo vệ phía tây bởi đầm lầy, và phía đông bởi những ngọn núi nhô lên từ cao nguyên Iran, một dân tộc gốc gác chưa rõ ràng đã phát triển một trong những nền văn minh lịch sử đầu tiên. Cách đây khoảng một thế hệ, các nhà khảo cổ Pháp đã tìm thấy tại đây di cốt người có niên đại 20.000 năm, và bằng chứng về một nền văn hóa phát triển từ khoảng năm 4500 trước Công nguyên.

Có vẻ như người Elam vừa mới thoát khỏi đời sống du mục săn bắt và đánh cá; nhưng họ đã có vũ khí và công cụ bằng đồng, đã gieo trồng ngũ cốc và thuần dưỡng gia súc, đã có chữ tượng hình và giấy tờ giao dịch, gương soi và đồ trang sức, cùng một mạng lưới buôn bán trải rộng từ Ai Cập đến Ấn Độ. Giữa những mảnh đá lửa ghè gợi nhớ Thời kỳ Đá Mới, ta lại bắt gặp những chiếc bình gốm hoàn thiện, dáng tròn tinh tế và trang trí thanh nhã bằng các họa tiết hình học, hoặc bằng hình vẽ sinh động của muông thú và cây cỏ; một số đồ gốm ấy được xếp vào hạng tuyệt mỹ nhất từng được loài người chế tác.

Chính tại đây, lần đầu tiên xuất hiện không chỉ bàn xoay gốm mà cả bánh xe ngựa; phương tiện giản dị nhưng thiết yếu ấy chỉ về sau mới thấy ở Babylon, và muộn hơn nữa mới đến Ai Cập. Từ những khởi đầu vốn đã phức tạp như thế, người Elam đã vươn lên thành một thế lực đầy biến động: lúc chinh phục Sumer và Babylon, lúc lại bị chính họ khuất phục. Thành Susa đã tồn tại suốt sáu ngàn năm lịch sử, chứng kiến đỉnh cao đế quốc của Sumer, Babylon, Ai Cập, Assyria, Ba Tư, Hy Lạp và La Mã, và còn thịnh vượng dưới cái tên Shushan cho đến tận thế kỷ XIV sau Công nguyên.

Nhiều lần trong lịch sử, Susa trở nên giàu có cực độ; khi Ashurbanipal chiếm và tàn phá thành (năm 646 TCN), sử quan của ông đã ghi chép mà không chút phóng đại rằng: vàng bạc, châu báu và đồ trang sức hoàng gia, y phục quý giá và đồ nội thất vương giả, mỹ phẩm và chiến xa – tất cả đã được đoàn quân chiến thắng chở về Nineveh. Lịch sử, từ rất sớm, đã bắt đầu chu kỳ bi thảm giữa nghệ thuật và chiến tranh.

Từ khoảng năm 3000 trước Công nguyên trở đi, những ghi chép trên bảng đất sét do các tư tế lưu giữ – được tìm thấy trong phế tích thành Ur – đã cho ta một bản tường thuật khá chính xác về các lần lên ngôi, lễ đăng quang, chuỗi thắng trận không ngừng và những cái chết huy hoàng của các tiểu vương cai trị những thành bang Ur, Lagash, Uruk và nhiều nơi khác. Việc viết sử, và sự thiên lệch của các sử gia, quả thực đã có từ rất xa xưa.

Một vị vua, Urukagina của Lagash, là một nhà cải cách vương quyền, một bạo chúa khai sáng, người đã ban hành các sắc lệnh nhắm chống lại sự bóc lột kẻ nghèo bởi kẻ giàu, và của toàn dân bởi giới tư tế. Một sắc lệnh chép rằng: vị thượng tế sẽ không còn được phép “vào vườn của một bà mẹ nghèo để lấy củi, hoặc thu thuế từ hoa quả ở đó nữa”; lệ phí mai táng bị cắt giảm xuống còn một phần năm so với trước; và giới giáo sĩ cũng như quan lại cao cấp bị cấm chia chác giữa họ số gia súc và lợi tức dâng cúng cho thần linh. Nhà vua hãnh diện tuyên bố rằng ông đã “ban tự do cho dân mình”; và quả thật, những bảng đất sét lưu giữ các sắc lệnh ấy đã hé lộ trước mắt chúng ta bộ luật cổ xưa nhất, ngắn gọn nhất và công bằng nhất trong lịch sử.

Khoảng thời gian sáng sủa ấy, như lẽ thường, đã kết thúc bởi một kẻ tên Lugal-zaggisi, người đem quân xâm lược Lagash, lật đổ Urukagina, và tàn phá thành phố vào độ hưng thịnh nhất. Đền thờ bị hủy, dân chúng bị tàn sát trên đường phố, và tượng thần bị lôi đi trong cảnh nô dịch nhục nhã. Một trong những bài thơ cổ nhất còn tồn tại đến nay là một bảng đất sét, dường như đã 4800 năm tuổi, trên đó thi sĩ Sumer Dingiraddamu than khóc cho nữ thần bị xâm phạm của Lagash:

Than ôi cho thành, cho châu báu, hồn ta nghẹn thở,
Than ôi cho thành Girsu (Lagash), cho châu báu, hồn ta nghẹn thở.
Trong thánh địa Girsu, con trẻ đau khổ khốn cùng.
Hắn (kẻ xâm lược) xông vào sâu trong ngôi đền huy hoàng;
Nữ Vương oai nghi bị lôi khỏi điện thờ.
Ôi Nữ Chủ thành ta, tiêu điều, bao giờ Người trở lại?

Chúng ta tạm bỏ qua Lugal-zaggisi đầy máu tanh, cùng các vua Sumer hùng mạnh khác mang những danh xưng như Lugal-shagengur, Lugal-kigub-nidudu, Ninigi-dubti, Lugal-andanukhunga… Trong khi ấy, một dân tộc khác, thuộc chủng Semit, đã dựng nên vương quốc Akkad dưới sự lãnh đạo của Sargon I, và lập kinh đô ở Agade, cách các thành bang Sumer khoảng 200 dặm về tây bắc. Một phiến đá nguyên khối tìm thấy ở Susa khắc họa Sargon với bộ râu oai vệ, phong thái uy nghi của quyền lực lâu dài.

Gốc tích ông không hề vương giả: lịch sử không tìm được người cha nào cho ông, và người mẹ duy nhất được nhắc đến là một kỹ nữ đền thờ. Truyền thuyết Sumer đã dệt cho ông một tiểu sử khởi đầu mang đậm màu sắc Môsê: “Người mẹ hèn mọn đã cưu mang ta; trong bí mật bà sinh ra ta. Bà đặt ta trong một chiếc thuyền con bằng cói; lấy nhựa bít kín cửa.” Được một người thợ cứu sống, ông trở thành kẻ hầu rượu cho vua, dần dần chiếm được ân sủng và thế lực, rồi nổi loạn, lật đổ chủ mình và bước lên ngai vàng Agade. Ông xưng là “Vua của Quyền lực Toàn cầu”, thực chất chỉ cai trị một phần nhỏ xứ Lưỡng Hà. Các sử gia gọi ông là “Đại Đế”, bởi ông xâm chiếm nhiều thành, cướp nhiều chiến lợi phẩm, và giết vô số người. Trong số nạn nhân của ông có chính Lugal-zaggisi – kẻ đã tàn phá Lagash và xúc phạm nữ thần của nó; Sargon đánh bại y và điệu về Nippur trong xiềng xích.

Từ đông sang tây, bắc xuống nam, chiến binh hùng mạnh ấy tiến quân: chinh phục Elam, rửa vũ khí của mình trong Vịnh Ba Tư như một nghi lễ chiến thắng, băng qua Tây Á, chạm đến Địa Trung Hải, và lập nên đế quốc lớn đầu tiên trong lịch sử. Suốt năm mươi lăm năm ông ngự trị, trong khi truyền thuyết dần kết thành quanh ông để chuẩn bị tôn ông thành thần. Triều đại ông khép lại trong cảnh toàn đế quốc nổi dậy chống đối.

Ba người con lần lượt kế vị. Người con thứ ba, Naram-sin, là một vị vua kiến thiết hùng mạnh, nhưng công trình của ông nay chỉ còn lại một tấm bia đẹp đẽ ghi chiến thắng trước một vị vua vô danh. Tấm phù điêu hùng mạnh này, do De Morgan tìm thấy tại Susa năm 1897, nay là báu vật của viện bảo tàng Louvre, khắc họa Naram-sin vạm vỡ, tay cầm cung và lao, bước với phong thái vương giả trên xác quân thù, sẵn sàng giáng cái chết tức khắc xuống lời van xin của kẻ chiến bại; trong khi đó một kẻ khác, trúng tên xuyên cổ, đang hấp hối. Sau lưng họ là dãy núi Zagros sừng sững; và trên một ngọn đồi là dòng chữ hình nêm tao nhã, khắc ghi chiến thắng của Naram-sin. Nghệ thuật chạm khắc ở đây đã đạt đến sự trưởng thành, vững vàng, được nâng đỡ bởi một truyền thống lâu dài.

Bị thiêu rụi thành tro tàn chưa hẳn là bất hạnh lâu dài cho một thành phố; thường thì đó lại là lợi thế, xét trên phương diện kiến trúc và vệ sinh. Đến thế kỷ XXVI TCN, ta thấy Lagash lại hồi sinh phồn thịnh, dưới triều một quân vương khai sáng khác: Gudea, người mà những bức tượng chắc nịch của ông là minh chứng nổi bật nhất của điêu khắc Sumer còn tồn tại. Bức tượng diorit ở Louvre khắc họa ông trong tư thế cung kính, đầu thắt dải băng nặng nề giống như mô hình Đấu trường Colosseum, tay đặt gọn trong lòng, vai và chân trần, đôi chân ngắn mập mạp phủ bởi một chiếc váy hình chuông thêu kín chữ tượng hình. Khuôn mặt mạnh mẽ mà hài hòa gợi lên một con người vừa suy tư vừa chính trực, cứng rắn nhưng thanh nhã.

Gudea được dân tôn kính không phải như một chiến binh mà như một Marcus Aurelius của Sumer, hiến dâng đời mình cho tôn giáo, văn chương và những công việc thiện hảo; ông xây dựng đền đài, khuyến khích việc nghiên cứu cổ học – với tinh thần không khác những cuộc thám hiểm đã khai quật chính ông – và biết lấy lòng nhân để kềm hãm sức mạnh của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Một trong những văn khắc của ông đã hé lộ chính sách khiến dân chúng sau khi ông mất đã tôn thờ ông như thần:

“Trong bảy năm, tỳ nữ ngang hàng với chủ mẫu, nô lệ sánh bước cùng chủ nhân, và trong thành ta, kẻ yếu được nghỉ ngơi bên cạnh kẻ mạnh.”

Trong khi ấy, “Ur của người Canđê” đang bước vào một trong những thời kỳ phồn thịnh nhất trong chặng đường dài từ năm 3500 TCN (niên đại ước tính của những ngôi mộ cổ nhất) đến năm 700 TCN. Vị vua vĩ đại nhất của nó, Ur-engur, đã đem toàn bộ Tây Á đặt dưới sự thống trị ôn hòa của mình, và công bố cho toàn xứ Sumer bộ luật quy mô đầu tiên trong lịch sử. “Bằng những luật công chính của thần Shamash, muôn đời ta đã thiết lập công lý.” Khi Ur giàu lên nhờ luồng thương mại chảy qua nó dọc sông Euphrates, Ur-engur – giống như Pericles – đã tô điểm cho thành phố bằng đền đài, và xây dựng xa hoa ở những thành thuộc địa như Larsa, Uruk và Nippur. Con trai ông, Dungi, nối nghiệp cha trong suốt 58 năm trị vì, và đã cai trị khôn ngoan đến mức nhân dân thần thánh hóa ông như một vị thần đã đem Thiên Đàng xưa kia trở lại.

Nhưng vinh quang ấy chẳng mấy chốc tàn phai. Người Elam hiếu chiến từ phương Đông và người Amor đang lên từ phương Tây ập xuống, quét sạch sự an nhàn, phồn vinh và thái bình của Ur, bắt giữ vua của nó, và cướp phá thành phố với sự triệt để thô sơ. Các thi sĩ Ur cất tiếng bi ai về tượng thần Ishtar – vị mẫu thần yêu dấu của họ – bị những kẻ xâm lăng báng bổ kéo khỏi đền thờ. Hình thức của những bài thơ ấy thật bất ngờ lại mang ngôi thứ nhất, và văn phong thì không mấy làm vừa lòng tai thẩm mỹ; nhưng xuyên qua bốn ngàn năm cách biệt giữa ta và thi nhân Sumer, ta vẫn cảm nhận rõ sự tan hoang của thành và của dân ông:

Kẻ thù đã làm nhục ta, ôi, bằng đôi tay chưa rửa sạch;
Hắn đã làm nhục ta, khiến ta chết trong sợ hãi.
Than ôi, ta khốn khổ! Hắn chẳng chút kính sợ chi!
Hắn lột bỏ y phục ta, khoác nó cho ái thê mình,
Giật lấy nữ trang ta, trang sức cho con gái hắn.
(Giờ đây) ta bước đi trong cung hắn – chính thân ta hắn đã tìm kiếm
Ngay trong thánh điện. Than ôi, cái ngày ta run rẩy phải bước ra!
Hắn rượt đuổi ta trong đền, khiến ta kinh hãi run rẩy
Ngay trong tường thành; như chim bồ câu bay loạng choạng
Trên xà gỗ, như cú mèo lẩn khuất trong hang,
Tựa loài chim, hắn xua ta khỏi điện,
Khỏi thành ta, hắn xua ta như loài chim than thở:
“Sau lưng ta, phía sau ta, là đền thờ của ta.”

Thế là suốt hai trăm năm – mà trong mắt ích kỷ của chúng ta nay chỉ là một khoảnh khắc trống rỗng – Elam và Amor đã cai trị xứ Sumer. Rồi từ phương bắc, vị đại vương Hammurabi của Babylon xuất hiện; đoạt lại từ tay Elam các thành Uruk và Isin; kiên nhẫn chờ đợi trong hai mươi ba năm; rồi xua quân sang Elam, bắt sống vua của họ; đặt ách thống trị lên người Amor và tận cả xứ Assyria xa xôi, dựng nên một đế quốc hùng mạnh chưa từng có, và kỷ luật nó bằng một bộ luật phổ quát. Trong nhiều thế kỷ tiếp đó, cho đến khi Ba Tư trỗi dậy, người Semit sẽ cai trị “vùng đất giữa hai con sông”. Còn người Sumer thì không còn được nghe nhắc tới nữa; chương ngắn ngủi của họ trong cuốn sách lịch sử đã khép lại.

Mình sẽ dịch nguyên văn đoạn này, giữ đúng nội dung, diễn đạt trôi chảy thuần Việt:


2. Đời sống kinh tế

Đất đai – Công nghiệp – Thương mại – Tầng lớp – Khoa học

Nhưng nền văn minh Sumer vẫn còn đó. Sumer và Akkad vẫn tiếp tục sản sinh ra những người thợ thủ công, thi sĩ, nghệ nhân, hiền triết và thánh nhân; văn hóa của các thành phố miền nam đã truyền ngược theo sông Euphrates và Tigris về phía bắc, đến Babylon và Assyria, như di sản khởi đầu của nền văn minh Lưỡng Hà.

Nền tảng của văn hóa này chính là lớp đất phù sa được bồi đắp nhờ lũ lụt hằng năm của các con sông tràn đầy bởi mưa mùa đông. Lũ vừa nguy hiểm vừa hữu ích; người Sumer đã học cách dẫn dòng nước an toàn qua các kênh đào tưới tiêu chằng chịt khắp đất đai; và họ đã ghi nhớ những hiểm nguy buổi đầu ấy bằng những truyền thuyết kể về một trận lụt, và về cách đất đai cuối cùng được tách khỏi biển cả, loài người được cứu thoát. Hệ thống thủy lợi này, có từ khoảng 4000 TCN, là một trong những thành tựu vĩ đại của văn minh Sumer, và chắc chắn là nền tảng của nó. Từ những cánh đồng được tưới tiêu cẩn thận ấy mọc lên mùa màng dồi dào: ngô, lúa mạch, lúa mì cổ spelt, chà là và nhiều loại rau quả. Cái cày xuất hiện rất sớm, do bò kéo, y như vẫn còn thấy cho đến tận ngày hôm qua; và nó đã được gắn thêm ống gieo hạt. Vụ mùa thu hoạch xong được đập bằng cách kéo những chiếc xe gỗ nặng, gắn răng đá lửa, nghiền nát rơm cho gia súc và giải phóng hạt lúa cho con người.

Xét về nhiều mặt, đây vẫn là một nền văn hóa nguyên thủy. Người Sumer có dùng đồng và thiếc, đôi khi pha trộn để tạo ra đồng thau; thỉnh thoảng họ còn chế được những công cụ lớn bằng sắt. Nhưng kim loại vẫn là món xa xỉ và hiếm hoi. Phần lớn công cụ của họ làm bằng đá lửa; một số, như lưỡi liềm gặt lúa mạch, được làm bằng đất nung; và những món tinh xảo hơn, như kim khâu hay dùi, thì dùng ngà voi hoặc xương. Nghề dệt được thực hiện trên quy mô lớn, dưới sự giám sát của các quản đốc do vua chỉ định – theo đúng “mốt” của nền công nghiệp được nhà nước kiểm soát. Nhà cửa làm bằng lau sậy, thường được trát một lớp bùn trộn rơm với nước rồi phơi nắng cho cứng; loại nhà như thế đến nay vẫn còn dễ dàng tìm thấy trên vùng đất xưa kia là Sumer. Căn lều có cửa gỗ quay trên bản lề đá. Sàn nhà thường chỉ là đất nện; mái thì hoặc vòm cong, bằng cách uốn sậy cho chụm lại ở đỉnh, hoặc phẳng, làm bằng sậy trát bùn trải lên các xà gỗ. Bò, cừu, dê và heo đi lại quanh nhà, trong tình bằng hữu nguyên sơ với con người. Nước uống được lấy từ giếng.

Hàng hóa chủ yếu được vận chuyển bằng đường thủy. Vì đá hiếm ở Sumer, nên nó phải được đưa từ Vịnh Ba Tư hoặc từ thượng nguồn các con sông về, rồi theo mạng lưới kênh rạch đến các bến cảng của thành phố. Nhưng vận tải đường bộ cũng đang phát triển; tại Kish, đoàn khai quật Oxford đã tìm thấy vài cỗ xe có bánh thuộc loại cổ nhất từng biết. Ở đây đó trong tàn tích còn có những ấn triện giao dịch cho thấy việc buôn bán với Ai Cập và Ấn Độ. Chưa có tiền tệ; thương mại thường dựa trên trao đổi hiện vật; nhưng vàng và bạc đã được dùng làm chuẩn giá trị, và thường được chấp nhận đổi lấy hàng hóa – đôi khi dưới dạng thỏi hay vòng với giá trị định sẵn, nhưng thường hơn là đo lường bằng cân nặng trong từng giao dịch. Nhiều bảng đất sét còn sót lại, chứa mảnh chữ viết Sumer, chính là văn bản thương mại, hé lộ một đời sống buôn bán sôi động. Một bảng đất thậm chí thở than, với cái mệt mỏi fin-de-siècle: “thành phố, nơi ồn ào của nhân gian.” Hợp đồng phải được xác nhận bằng văn bản và có nhân chứng. Đã có một hệ thống tín dụng, theo đó hàng hóa, vàng hay bạc có thể được vay mượn, với lãi suất trả bằng chính vật liệu vay, dao động từ 15 đến 33% mỗi năm. Và bởi vì sự ổn định của một xã hội phần nào có thể đo bằng tỉ lệ nghịch với mức lãi suất, ta có thể nghi ngờ rằng đời sống thương mại Sumer, cũng như của chúng ta, tồn tại trong một bầu khí quyển đầy bất ổn kinh tế và chính trị.

Vàng bạc đã được tìm thấy rất nhiều trong các ngôi mộ, không chỉ dưới dạng trang sức, mà còn là bình, vũ khí, đồ trang trí, thậm chí cả công cụ. Giàu và nghèo được phân chia thành nhiều tầng lớp và bậc thang; chế độ nô lệ đã phát triển cao, và quyền sở hữu tài sản đã được xem là thiêng liêng. Giữa kẻ giàu và người nghèo dần hình thành một tầng lớp trung lưu, gồm tiểu thương, học giả, thầy thuốc và tư tế. Y học phát triển, có “phương thuốc” cho mọi bệnh; nhưng vẫn gắn chặt với thần học, và thừa nhận rằng bệnh tật là do ác thần ám nhập, nên không thể chữa khỏi nếu không trừ được ma quỷ. Một cuốn lịch có niên đại và nguồn gốc chưa rõ ràng đã chia năm thành những tháng theo chu kỳ mặt trăng, thêm một tháng mỗi ba hay bốn năm để điều chỉnh với mùa và mặt trời. Mỗi thành phố tự đặt tên riêng cho các tháng.

3. Chính quyền

Các vị vua – Cách tiến hành chiến tranh – Các lãnh chúa phong kiến – Luật pháp

Thật vậy, mỗi thành phố, chừng nào còn có thể, đều giữ lấy sự độc lập ghen tị của riêng mình, và tự ban cho mình một vị vua riêng. Họ gọi ông là patesi, tức “vua-tư tế”, chính cái tên đã cho thấy rằng chính quyền gắn liền với tôn giáo. Đến khoảng năm 2800 TCN, sự phát triển của thương mại đã khiến cho tình trạng cát cứ đô thị như thế không còn khả thi, và tạo nên những “đế quốc”, trong đó một cá nhân quyền lực áp đặt sức mạnh của mình lên các thành phố cùng các patesi của chúng, rồi dệt chúng lại thành một thể thống nhất về kinh tế và chính trị. Nhà bạo chúa ấy sống trong một bầu không khí kiểu Phục Hưng, đầy bạo lực và sợ hãi; bất cứ lúc nào ông cũng có thể bị giết bởi chính những thủ đoạn đã đưa ông lên ngai vàng. Ông cư ngụ trong cung điện bất khả xâm phạm, có hai cổng vào hẹp đến mức chỉ cho một người đi qua mỗi lần; ở hai bên có những hốc bí mật, nơi cận vệ ẩn mình để dò xét từng khách, hoặc bất ngờ lao ra với dao găm. Ngay cả đền thờ của vua cũng nằm riêng biệt, ẩn sâu trong cung, để ông có thể cử hành bổn phận tôn giáo mà không bị người ngoài dòm ngó, hoặc cũng có thể dễ bề lơ là mà chẳng ai hay biết.

Vua ra trận trên cỗ xe ngựa, dẫn đầu một đoàn quân hỗn tạp, vũ trang cung, tên và giáo. Chiến tranh được tiến hành thẳng thắn chỉ vì đường buôn và hàng hóa, chứ không cần những khẩu hiệu làm dịu tai những kẻ mơ mộng. Vua Manish-tusu của Akkad đã tuyên bố công khai rằng ông xâm lược Elam là để giành quyền kiểm soát các mỏ bạc, và để có được đá diorit nhằm tạc tượng lưu danh – trường hợp duy nhất từng biết trong lịch sử có một cuộc chiến tranh vì nghệ thuật. Kẻ bại trận thường bị bán làm nô lệ; hoặc, nếu việc này không sinh lợi, họ bị tàn sát ngay trên chiến địa. Thỉnh thoảng, một phần mười số tù binh, vùng vẫy vô ích trong lưới, bị dâng lên làm vật hiến sinh sống cho các vị thần khát máu. Như trong nước Ý thời Phục Hưng, chủ nghĩa địa phương cực đoan của các thành phố đã kích thích đời sống và nghệ thuật, nhưng lại dẫn đến bạo lực nội bộ và những cuộc tranh chấp tự sát, khiến từng tiểu quốc suy yếu, và cuối cùng hủy diệt cả xứ Sumer.

Trong các đế quốc, trật tự xã hội được duy trì bằng một hệ thống phong kiến. Sau một cuộc chiến thắng lợi, nhà cai trị ban những mảnh đất cho các thủ lĩnh dũng mãnh của mình, và miễn trừ thuế cho các trang trại ấy; đổi lại, những lãnh chúa ấy giữ gìn trật tự trong lãnh địa, và cung cấp binh lính cùng lương thảo cho những cuộc chinh phạt của vua. Tài chính quốc gia được thu về bằng thuế hiện vật, cất giữ trong các kho hoàng gia, rồi phân phát lại làm lương bổng cho quan lại và nhân viên nhà nước.

Bên cạnh hệ thống quản lý hoàng gia và phong kiến ấy là một bộ luật, vốn đã giàu tiền lệ khi Ur-engur và Dungi hệ thống hóa các điều luật của Ur; chính bộ luật này là nguồn cội của bộ luật nổi tiếng của Hammurabi. Nó thô sơ và giản dị hơn những luật lệ về sau, nhưng lại ít khắc nghiệt hơn: chẳng hạn, nơi mà bộ luật Semit xử tử một phụ nữ vì ngoại tình, thì bộ luật Sumer chỉ cho phép người chồng cưới vợ thứ hai, và hạ người vợ đầu xuống địa vị thấp hơn. Luật bao quát cả quan hệ thương mại lẫn quan hệ hôn nhân, điều chỉnh mọi khoản vay và hợp đồng, mọi mua bán, nhận con nuôi và thừa kế. Các tòa án ngồi ngay trong đền thờ, và phần lớn thẩm phán là tư tế; một tòa thượng thẩm có các quan tòa chuyên nghiệp. Điểm tốt đẹp nhất trong bộ luật này là một cơ chế tránh kiện tụng: mọi vụ việc trước hết được trình lên một vị trọng tài công, có bổn phận dàn xếp hòa bình để đôi bên thỏa thuận mà không cần đưa ra pháp đình. Thật là một nền văn minh kém cỏi nếu ta không thể học được từ đó điều gì để cải thiện xã hội của chính mình.

4. Tôn giáo và Đạo đức

Thần điện Sumer – Thức ăn của chư thần – Thần thoại – Giáo dục – Một lời nguyện Sumer – Gái đền – Quyền của phụ nữ – Mỹ phẩm Sumer

Vua Ur-engur đã công bố bộ luật của mình nhân danh vị đại thần Shamash, bởi chính quyền đã sớm khám phá ra lợi ích chính trị của thiên giới. Một khi được chứng minh là hữu dụng, các thần liền trở nên vô số; mỗi thành phố, mỗi quốc gia, mỗi hoạt động của con người đều có một vị thần khích lệ và trừng phạt. Tín ngưỡng thờ thần Mặt Trời, hẳn đã cổ xưa ngay từ khi Sumer mới hình thành, bộc lộ qua giáo phái thờ Shamash – “ánh sáng của chư thần” – vị thần mỗi đêm chìm sâu vào cõi bắc tối tăm, cho đến khi Bình Minh mở cửa cho ông; rồi ông leo lên bầu trời như ngọn lửa, đánh xe vượt dốc cao của vòm trời; mặt trời chỉ là bánh xe cháy sáng trên cỗ xe lửa của ông.

Nippur xây đền nguy nga để thờ thần Enlil và phu nhân Ninlil; Uruk đặc biệt tôn kính nữ thần đất trinh nguyên Innini, được người Semit ở Akkad gọi là Ishtar – vị Aphrodite-Demeter đa tình và đa diện của phương Đông. Kish và Lagash thì thờ Ninkarsag – vị Mẫu thần sầu muộn, đau lòng trước khổ ải của nhân loại, thường đứng ra cầu thay cho họ trước những thần linh khắc nghiệt hơn. Ningirsu là thần của thủy lợi, “Chúa của lũ lụt”; Abu hay Tammuz là thần thảo mộc. Ngay cả Sin cũng là một vị thần – thần Mặt Trăng; ông được khắc họa mang hình dáng con người, trên đầu có vành trăng lưỡi liềm mỏng, báo trước những quầng sáng quanh đầu các thánh nhân thời Trung Cổ. Không gian đầy dẫy linh hồn – những thiên sứ hộ mệnh, mỗi người Sumer đều có một vị; và những ma quỷ ác độc, tìm cách đẩy vị hộ thần ấy đi để chiếm lấy thân xác và linh hồn con người.

Hầu hết chư thần sống trong đền, nơi họ được tín đồ cung cấp của cải, thức ăn và cả thê thiếp. Các bảng đất sét của Gudea liệt kê những món mà thần ưa chuộng: bò, dê, cừu, bồ câu, gà, vịt, cá, chà là, vả, dưa leo, bơ, dầu và bánh ngọt; từ danh sách này, ta có thể đoán rằng người Sumer khá giả cũng hưởng một ẩm thực phong phú. Thoạt tiên, có vẻ như chư thần ưa chuộng thịt người; nhưng khi đạo đức con người nâng cao, thần đành phải bằng lòng với súc vật. Một bảng phụng vụ tìm thấy trong phế tích Sumer chép, với linh cảm thần học kỳ lạ: “Con chiên thay thế cho nhân loại; nó đã dâng mạng sống thay cho người.” Nhờ những phẩm vật như thế, giới tư tế trở thành giai tầng giàu có và quyền lực nhất trong các thành Sumer. Trong nhiều phương diện, họ chính là chính quyền; khó lòng xác định rõ patesi là tư tế đến mức nào, và là vua đến mức nào. Urukagina đã nổi dậy như một Martin Luther chống lại sự tham tàn của giáo sĩ, tố cáo họ về lòng tham, buộc tội họ nhận hối lộ khi xử án, và phê phán họ đánh thuế nặng lên nông dân cùng ngư dân đến mức cướp đi thành quả lao động của họ. Ông quét sạch các quan chức tham nhũng khỏi pháp đình một thời gian, lập luật điều chỉnh thuế và lệ phí dâng cho đền, bảo vệ kẻ yếu khỏi sự cưỡng bức, và ngăn chặn hành vi tước đoạt bạo tàn tài sản của dân. Thế giới đã sớm già đi, và đã yên vị trong những lề thói cố hữu của nó.

Có lẽ khi Urukagina chết, hàng ngũ tư tế đã giành lại quyền lực, cũng như họ từng giành lại được quyền lực ở Ai Cập sau khi Ikhnaton qua đời; con người sẵn sàng trả bất cứ giá nào cho thần thoại. Ngay cả trong thời xa xưa này, những thần thoại lớn của tôn giáo đã thành hình. Bởi vì lương thực và công cụ thường được đặt vào mộ cùng người chết, ta có thể suy đoán rằng người Sumer tin vào một đời sau. Nhưng giống như người Hy Lạp, họ hình dung thế giới bên kia như một cõi tối tăm của những bóng ma khốn khổ, nơi mọi người chết đều bị dẫn xuống mà không phân biệt. Họ chưa hề nghĩ ra thiên đàng hay địa ngục, phần thưởng hay trừng phạt vĩnh cửu; họ cầu nguyện và dâng lễ không phải để xin “sự sống đời đời”, mà để có lợi ích cụ thể ngay trên mặt đất này.

Về sau, truyền thuyết kể rằng Adapa, một hiền triết xứ Eridu, đã được nữ thần Ea – thần minh trí tuệ – khai mở mọi lẽ, chỉ trừ một bí mật: sự bất tử. Một truyền thuyết khác thuật rằng chư thần đã tạo dựng con người trong hạnh phúc; nhưng rồi con người, bởi ý chí tự do, đã phạm tội, và bị trừng phạt bằng một trận đại hồng thủy, trong đó chỉ có một người – Tagtug, người thợ dệt – sống sót. Tagtug đã đánh mất tuổi thọ và sức khỏe vì ăn trái cấm.

Giới tư tế truyền đạt giáo dục cũng như thần thoại, và chắc hẳn đã tìm cách dạy dỗ cũng như cai trị bằng những thần thoại đó. Hầu hết các đền thờ đều gắn liền với trường học, nơi giáo sĩ dạy trẻ trai lẫn trẻ gái biết viết và tính toán, rèn luyện họ trong lòng ái quốc và đạo hạnh, và chuẩn bị một số cho nghề cao quý là ký lục. Các bảng đất sét học đường còn sót lại ghi đầy bảng nhân, bảng chia, căn bậc hai, bậc ba, và các bài tập hình học ứng dụng. Việc giảng dạy có lẽ chẳng dốt nát hơn bao nhiêu so với cái mà con em chúng ta nhận ngày nay, như chứng tỏ qua một bảng đất sét chứa đựng bản tóm lược nhân loại học mang phong cách của Lucretius:

“Loài người khi mới được tạo ra chưa biết có bánh để ăn hay áo để mặc. Người ta đi bằng cả tứ chi trên đất, ăn cỏ bằng miệng như chiên cừu, uống nước vũng.”

Thật đáng kinh ngạc khi thấy tâm hồn cao thượng và ngôn từ tinh tế mà tôn giáo lịch sử đầu tiên của nhân loại có thể vươn tới, sáng ngời trong lời cầu nguyện của vua Gudea dâng lên nữ thần Bau – vị thần hộ mạng của Lagash:

Ôi Nữ Vương của con, Mẹ đã dựng nên Lagash,
Dân mà Người đoái nhìn, quyền thế giàu sang;
Kẻ thờ phượng được Người thương, đời sống dài lâu.
Con không có mẹ – Người chính là Mẹ con;
Con không có cha – Người chính là Cha con…
Nữ thần Bau của con, Người biết điều lành;
Người đã ban cho con hơi thở sự sống.
Dưới bóng che chở của Người, Mẹ ơi,
Trong bóng Người, con sẽ kính cẩn cư ngụ.

Phụ nữ được gắn bó với mọi ngôi đền – một số làm việc nhà, một số khác là thê thiếp cho các thần, hoặc cho những đại diện hợp pháp của thần ở trần gian. Phục vụ đền theo cách này chẳng hề bị xem là ô nhục đối với một thiếu nữ Sumer; cha nàng tự hào khi dâng hiến nhan sắc con mình để xua tan sự tẻ nhạt của thần linh, và còn long trọng cử hành nghi lễ hiến tế khi con gái được nhận vào chức vụ thánh thiêng ấy, đồng thời dâng lễ cưới của con cho ngôi đền.

Hôn nhân khi ấy đã là một chế định phức tạp, chịu sự điều chỉnh của nhiều luật lệ. Của hồi môn mà người cha trao cho con gái khi lấy chồng vẫn do nàng làm chủ; tuy được quản lý chung với chồng, nhưng chỉ riêng nàng mới quyết định việc truyền lại nó. Người vợ có quyền ngang chồng đối với con cái; và khi chồng cùng con trai trưởng vắng mặt, nàng được quyền quản lý cả gia sản lẫn gia đình. Nàng có thể kinh doanh độc lập với chồng, và có thể giữ hoặc bán nô lệ riêng. Đôi khi, như Shub-ad, nàng có thể vươn lên địa vị hoàng hậu, trị vì thành phố của mình với vẻ uy nghi và xa hoa.

Tuy nhiên, trong mọi cơn khủng hoảng, đàn ông vẫn là chủ nhân tuyệt đối. Trong một số điều kiện, người chồng có thể bán vợ, hoặc trao vợ làm nô lệ để trả nợ. Luật “hai tiêu chuẩn” đã được áp dụng từ thời ấy, như một hệ quả của chế độ tài sản và thừa kế: ngoại tình nơi đàn ông chỉ là trò thất thường có thể tha thứ, còn với đàn bà thì bị xử tử. Người vợ được mong chờ sinh nhiều con cho chồng và cho nhà nước; nếu hiếm muộn, nàng có thể bị ly dị không cần lý do nào khác; nếu chỉ vì không muốn mang thai liên tục, nàng sẽ bị dìm chết. Con cái thì không có quyền lợi pháp lý; cha mẹ, chỉ bằng việc công khai từ bỏ chúng, là đã có thể khiến chúng bị trục xuất khỏi thành.

Thế nhưng, như trong hầu hết các nền văn minh, phụ nữ thuộc tầng lớp trên gần như bù đắp được sự cực nhọc và thiệt thòi của những chị em nghèo khó bằng sự xa hoa và đặc quyền của mình. Trong các mộ Sumer, mỹ phẩm và đồ trang sức hiện diện khắp nơi. Trong ngôi mộ của hoàng hậu Shub-ad, giáo sư Woolley đã tìm thấy một hộp phấn nhỏ bằng khoáng malachite xanh lục, những chiếc trâm vàng gắn núm bằng đá lapis-lazuli, và một hộp đồ trang điểm tinh xảo bằng vàng chạm lộng hình vỏ sò. Hộp đồ này, to cỡ ngón tay út, chứa một chiếc thìa nhỏ xíu (có lẽ để lấy son phấn từ hộp phấn), một que kim loại (có thể để chăm sóc biểu bì móng), và một nhíp – hẳn được dùng để tỉa lông mày hay nhổ đi những sợi lông không mong muốn. Nhẫn của Nữ hoàng được làm bằng sợi vàng; một chiếc gắn những mảnh lapis-lazuli; vòng cổ của bà kết bằng chuỗi lapis-lazuli uốn rãnh xen vàng. Thật vậy, “dưới ánh mặt trời chẳng có gì mới lạ”; khoảng cách giữa người phụ nữ đầu tiên và người phụ nữ cuối cùng có thể dễ dàng lọt qua lỗ kim.

5. Văn tự và Nghệ thuật

Chữ viết – Văn học – Đền đài và cung điện – Điêu khắc – Gốm – Trang sức – Tổng kết về nền văn minh Sumer

Sự thật gây kinh ngạc trong những di tích Sumer chính là chữ viết. Nghệ thuật kỳ diệu này dường như đã đạt đến mức phát triển hoàn chỉnh, đủ sức biểu đạt những tư tưởng phức tạp trong thương mại, thi ca và tôn giáo. Những khắc văn cổ nhất được tìm thấy trên đá, có niên đại xa đến khoảng năm 3600 TCN. Vào khoảng 3200 TCN, bảng đất sét xuất hiện, và từ đó người Sumer dường như say mê tận hưởng phát minh vĩ đại này. Thật may mắn cho chúng ta khi cư dân Lưỡng Hà không viết trên giấy mỏng manh chóng hư cùng mực dễ phai, mà viết trên đất sét ẩm, khéo léo khắc bằng một cây bút nhọn có đầu hình nêm (cuneiform). Với chất liệu mềm dẻo này, các ký lục lưu giữ hồ sơ, lập hợp đồng, soạn văn bản chính thức, ghi chép tài sản, phán quyết và mua bán, và sáng tạo nên một nền văn hóa trong đó cây bút nhọn trở nên quyền lực chẳng kém gì lưỡi gươm. Khi viết xong, họ nung bảng đất bằng lửa hoặc phơi nắng, biến nó thành bản thảo bền chắc hơn giấy rất nhiều, chỉ kém đá về độ lâu bền. Sự phát triển của chữ hình nêm chính là đóng góp nổi bật nhất của Sumer cho tiến trình văn minh của nhân loại.

Chữ viết Sumer đọc từ phải sang trái; còn người Babylon, theo như ta biết, là những người đầu tiên viết từ trái sang phải. Loại chữ tuyến tính, như ta đã thấy, dường như là hình thức cách điệu và quy ước hóa của những dấu hiệu và hình vẽ vốn được khắc hay tô trên gốm Sumer thời sơ khai. Có lẽ do sự lặp đi lặp lại và vội vàng qua nhiều thế kỷ, những hình vẽ nguyên thủy ấy dần thu hẹp thành ký hiệu, khác xa đối tượng vốn có, và trở thành ký hiệu cho âm thanh thay vì cho sự vật. Ta có thể hình dung một quá trình tương tự trong tiếng Anh nếu hình con ong (bee) theo thời gian bị giản lược, rồi không còn mang nghĩa “con ong” mà chỉ biểu thị âm be, và từ đó dùng để ghi lại âm tiết ấy trong bất kỳ từ nào, như trong từ being. Người Sumer và Babylon chưa bao giờ tiến từ hình thức biểu đạt âm tiết đến chữ cái – họ không hề bỏ nguyên âm để ký hiệu be thành b; có lẽ phải chờ người Ai Cập mới thực hiện được bước đi đơn giản nhưng cách mạng ấy.

Sự chuyển biến từ chữ viết sang văn học hẳn đòi hỏi nhiều thế kỷ. Trong thời gian dài, chữ viết chỉ là công cụ thương mại – chuyện hợp đồng, hóa đơn, hàng hóa và biên lai; và ở mức thứ yếu, có lẽ, nó còn là phương tiện ghi chép tôn giáo – một cách lưu giữ bùa chú, nghi lễ, truyền thuyết linh thiêng, lời cầu nguyện và thánh ca để tránh bị biến đổi hay mai một. Tuy nhiên, đến khoảng năm 2700 TCN, tại Sumer đã hình thành những thư viện lớn; ở Tello, chẳng hạn, trong phế tích đồng thời với triều Gudea, De Sarzac đã phát hiện một bộ sưu tập hơn 30.000 bảng đất được xếp chồng lên nhau ngay ngắn, có hệ thống. Đến khoảng 2000 TCN, các sử gia Sumer đã bắt đầu tái dựng quá khứ và ghi lại hiện tại để soi sáng cho hậu thế; một phần công trình của họ đến với chúng ta không phải dưới dạng nguyên bản mà qua trích dẫn trong biên niên sử Babylon về sau. Tuy vậy, trong số những mảnh nguyên bản còn lại, có một bảng đất tìm thấy ở Nippur, chứa nguyên mẫu Sumer của sử thi Gilgamesh, mà ta sẽ khảo sát kỹ hơn trong hình thức hoàn chỉnh Babylon sau này. Một số bảng đất vỡ khác còn lưu giữ những khúc bi ca có sức gợi lớn và hình thức văn chương đáng chú ý. Chính tại đây, ngay từ khởi đầu, đã xuất hiện đặc trưng của văn học phương Đông cổ: lối tụng ca lặp đi lặp lại – nhiều câu mở đầu giống nhau, nhiều mệnh đề nhắc lại hoặc triển khai ý của mệnh đề trước. Qua những di vật lưu giữ ấy, ta thấy được nguồn gốc tôn giáo của văn học – khởi phát từ những bài ca và khúc ai của hàng ngũ tư tế. Những bài thơ đầu tiên không phải khúc tình ca, mà chính là lời nguyện cầu.

Đằng sau những khởi đầu bề mặt của văn hóa ấy chắc chắn là nhiều thế kỷ phát triển, tại Sumer và những vùng đất khác. Không có gì được tạo ra đột ngột – tất cả đều trưởng thành dần. Cũng như trong chữ viết, Sumer dường như đã sáng tạo ra chữ hình nêm, thì trong kiến trúc, họ cũng đã sáng tạo nên ngay từ đầu những hình thức nền tảng của ngôi nhà và đền thờ, cột, vòm và mái cuốn. Người nông dân Sumer dựng lều bằng cách cắm lau sậy thành hình vuông, hình chữ nhật hay hình tròn, rồi uốn ngọn chụm vào nhau, buộc lại thành vòm, mái cuốn hay mái vòm; có thể nói đây chính là nguồn gốc giản đơn, hay là hình thức xuất hiện sớm nhất từng biết, của những kiến trúc dạng ấy. Trong phế tích Nippur có một cống vòm 5000 năm tuổi; trong các mộ hoàng gia Ur có những mái vòm ngược về tận 3500 TCN, và đến 2000 TCN, cửa vòm đã phổ biến ở Ur. Và đó là những mái vòm thực sự: tức là những viên đá được xếp đúng kỹ thuật voussoir – mỗi viên là một nêm đá thon xuống dưới, khít chặt vào vị trí.

Những công dân giàu có xây dựng cung điện, thường dựng trên gò cao đến bốn mươi feet so với đồng bằng, và cố ý làm cho khó tiếp cận ngoại trừ một lối đi duy nhất, để cho ngôi nhà của mỗi người Sumer quả thực là một “lâu đài”. Vì đá khan hiếm, các cung điện này phần lớn được xây bằng gạch. Bề mặt tường đỏ đơn giản được trang trí bằng gốm nung nhiều dạng – vòng xoắn, hình chữ V, hình tam giác, thoi hay hoa văn caro. Nội thất thì trát vữa và vẽ tường theo lối đơn sơ. Nhà được xây quanh một sân trung tâm, vừa che nắng vừa đem lại chút mát mẻ trước cái nóng vùng Địa Trung Hải; cũng vì lý do ấy, và vì an ninh, các phòng mở ra sân này chứ không mở ra bên ngoài. Cửa sổ là xa xỉ phẩm – hoặc có lẽ người ta không muốn có chúng. Nước được lấy từ giếng; còn một hệ thống thoát nước mở rộng đã dẫn chất thải ra khỏi khu dân cư. Đồ đạc không cầu kỳ hay phong phú, nhưng cũng chẳng phải vô vị. Một số giường được khảm kim loại hoặc ngà; và đôi khi, như ở Ai Cập, ghế tựa còn có chân trang trí như vuốt sư tử.

Đối với đền thờ, đá được nhập từ xa, trang hoàng bằng xà ngang và diềm đồng khảm đá quý. Đền thần Nannar ở Ur đã khởi xướng mốt cho toàn vùng Lưỡng Hà với những viên gạch men xanh nhạt; còn bên trong thì ốp gỗ quý như tuyết tùng, bách, khảm cẩm thạch, thạch cao tuyết hoa, mã não, ngọc mã não đỏ và vàng. Thông thường, ngôi đền quan trọng nhất trong thành không chỉ được xây trên nền cao, mà còn được dựng thêm ziggurat – tháp nhiều tầng ba, bốn hoặc bảy tầng, bao quanh bởi cầu thang xoắn ngoài trời, và lùi vào ở mỗi tầng. Chính nơi cao nhất ấy là chỗ cư ngụ của vị thần tối cao của thành phố, và cũng là thành lũy tinh thần lẫn vật chất cuối cùng của chính quyền chống lại xâm lăng hay nổi dậy.

Đền thờ đôi khi được trang trí bằng tượng thú, anh hùng hay thần; những hình khối thô mộc, dày dặn và mạnh mẽ, nhưng rõ ràng thiếu sự tinh tế và duyên dáng điêu khắc. Phần lớn các tượng còn lại là tượng vua Gudea, chạm khắc kiên định nhưng vụng về trên đá diorit cứng rắn. Trong phế tích Tell-el-Ubaid, thuộc thời Sumer sơ kỳ, tìm thấy một tượng bò bằng đồng, trải qua bao thế kỷ tàn phá nhưng vẫn đầy sức sống và nét an nhiên trâu bò. Đầu bò bằng bạc trong mộ Hoàng hậu Shub-ad ở Ur là một kiệt tác, gợi nhớ một nền nghệ thuật phát triển quá nhiều bị hủy hoại bởi thời gian khiến ta không thể đánh giá đúng. Điều này gần như được chứng minh qua những phù điêu còn sót lại. “Tấm bia Kền kền” do vua Eannatum của Lagash dựng nên, ống trụ bằng thạch anh đỏ của Ibnishar, những hình hí họa dí dỏm (hẳn đúng là vậy) của Ur-nina, và trên hết là “Tấm bia Chiến thắng” của Naram-sin – tất cả đều mang nét vụng về của điêu khắc Sumer, nhưng tràn đầy sức sống mạnh mẽ trong đường nét và hành động, đặc trưng của một nghệ thuật non trẻ nhưng đang hưng thịnh.

Về gốm thì khó mà nhận xét khoan dung như vậy. Có lẽ thời gian đã đánh lừa phán đoán của ta bằng cách chỉ bảo tồn những món tệ nhất; có lẽ từng có nhiều tác phẩm tinh xảo như những bình thạch cao tuyết hoa tìm thấy ở Eridu. Nhưng nhìn chung, gốm Sumer, dù đã quay bằng bàn xoay, vẫn chỉ là đất nung tầm thường, không thể so sánh với bình gốm của Elam. Các thợ kim hoàn thì làm việc tốt hơn nhiều. Những bình bằng vàng, thiết kế tinh tế, hoàn thiện tinh xảo, đã được tìm thấy trong những ngôi mộ cổ nhất ở Ur, có niên đại đến tận 4000 TCN. Chiếc bình bạc của Entemenu, nay ở Louvre, vạm vỡ như tượng Gudea, nhưng khắc họa dày đặc hình thú được chạm khắc tinh vi. Đẹp nhất phải kể đến chuôi dao bằng vàng cùng lưỡi dao găm bằng đá lapis-lazuli khai quật ở Ur; nhìn qua ảnh chụp, hình dáng của nó gần như đạt đến sự hoàn mỹ. Các tàn tích cũng đem lại vô số ấn triện hình trụ, đa phần làm bằng kim loại hoặc đá quý, với hình chạm nổi cẩn thận trên diện tích chỉ một, hai inch vuông; những ấn triện này dường như được người Sumer dùng thay chữ ký, và cho thấy một mức độ tinh tế trong đời sống và lối ứng xử khiến ta phải lung lay trước quan niệm ngây thơ rằng tiến bộ chỉ đơn thuần là con người leo lên liên tục từ những nền văn hóa “bất hạnh” của quá khứ đến đỉnh cao “vô song” của hôm nay.

Nền văn minh Sumer có thể được tóm lược trong sự đối lập giữa gốm vụng về và đồ trang sức tinh xảo; nó là sự tổng hòa của những khởi đầu thô sơ và những khoảnh khắc bừng sáng lộng lẫy. Chính tại đây – trong phạm vi tri thức hiện tại của chúng ta – xuất hiện lần đầu tiên các quốc gia và đế chế, hệ thống thủy lợi, việc dùng vàng bạc làm chuẩn giá trị, hợp đồng thương mại, tín dụng, bộ luật thành văn, sự phát triển rộng rãi của chữ viết, những câu chuyện sáng thế và đại hồng thủy, thư viện và trường học, văn chương và thi ca, mỹ phẩm và trang sức, điêu khắc và phù điêu, cung điện và đền thờ, đồ kim loại trang trí và mô-típ nghệ thuật, vòm, cột, mái cuốn và mái vòm. Chính tại đây, lần đầu tiên trong quy mô lớn, xuất hiện những “tội lỗi” của văn minh: nô lệ, chuyên chế, quyền lực giáo sĩ, và chiến tranh xâm lược. Đời sống nơi đây đa dạng và tinh vi, phong phú và phức tạp. Sự bất bình đẳng tự nhiên giữa người với người đã tạo ra một mức độ mới của sự tiện nghi và xa hoa cho kẻ mạnh, và một guồng quay lao động khổ nhọc, kỷ luật cho phần đông còn lại. Và như thế, âm điệu mà lịch sử sẽ ngân lên bằng vô vàn biến khúc đã được dạo sẵn từ đây.

5/5 - (1 vote)

DONATE

Toàn bộ tiền donate sẽ được dùng để:

  • Nghiên cứu – Mua tài liệu, thuê dịch giả, kỹ thuật viên.
  • Duy trì máy chủ và bảo mật website
  • Mở rộng nội dung – Thêm nhiều chủ đề, bản đồ, minh họa

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM