Sử Trung Quốc

Tào Tháo: Anh hùng, gian hùng, hay gian tặc

Ông từng hô phong hoán vũ; sau khi chết lại mang nhiều tiếng chửi nhất.

0 views

Tác giả bài gốc: Dịch Trung Thiên

Blog Lịch Sử tổng hợp và biên soạn từ series Dịch Trung Thiên bình Tam Quốc rất nổi tiếng của Trung Quốc. Phần 2: Chân giả Tào Tháo

Ông từng hô phong hoán vũ; sau khi chết lại mang nhiều tiếng chửi nhất. Trong Diễn Nghĩa, vì sao ông là gian thần mặt trắng? Trong sử ký, vì sao hành trạng của ông tự mâu thuẫn? Ông là gian tặc, gian hùng, hay anh hùng? Giữa muôn hình tượng nói khác nhau, đâu mới là Tào Tháo chân thực?

Ở tập trước, thầy Dịch Trung Thiên cho rằng mọi nhân vật lịch sử đều có ba hình tượng: lịch sử, văn học, và dân gian. Trong Tam Quốc, người có hình tượng phức tạp nhất, dị biệt nhiều nhất chính là Tào Tháo. Từ đời Bắc Tống, hễ nhắc Tào Tháo, người ta đã căm ghét. Đến Tam Quốc Diễn Nghĩa, ông càng bị coi là một gian thần mưu quyền đoạt vị. Vậy Tào Tháo trong lịch sử rốt cuộc là hình tượng gì? Giáo sư Dịch Trung Thiên (Đại học Hạ Môn) dùng nhãn quan đương đại khảo cứu sử liệu Tam Quốc—Tào Tháo trong lòng ông là ai?

Dịch Trung Thiên:

Hôm nay ta bàn Tào Tháo. Nói Tam Quốc thì không thể không nói Tào Tháo: Tam Quốc là Ngụy–Thục–Ngô, mà hoàng đế khai quốc của Ngụy trên thực tế chính là Tào Tháo. Dĩ nhiên, khi còn tại vị ông không xưng đế; sau khi ông mất, con là Tào Phi mới xưng đế, truy tôn ông là Ngụy Vũ Đế. Nhưng khẳng định Tào Tháo là người sáng lập thực sự của nước Ngụy.

Danh tiếng của Tào Tháo trong lịch sử không mấy tốt: nói nhẹ thì gọi gian hùng, nói nặng thì gian tặc. Nhưng Lỗ Tấn nói: Tào Tháo thực là người có bản lĩnh, ít nhất là một anh hùng. Tuy tôi không phải phe Tào, nhưng vô cùng khâm phục ông. Lỗ Tấn có thể coi là người đầu tiên thời cận đại “giải oan” cho Tào Tháo. Như vậy, đối với Tào Tháo có ba cách đánh giá: anh hùng, gian hùng, gian tặc. Đánh giá nào mới chuẩn xác?

Nhưng khi ta làm rõ hình tượng lịch sử của Tào Tháo, lại phát hiện một vấn đề: hình tượng lịch sử ấy cũng chẳng dễ mà sáng tỏ. Thí dụ, dân gian đều nói Tào Tháo gian, nhiều người không ưa ông. Tô Đông Pha kể: đời Bắc Tống, dân gian có nhiều người kể chuyện sử; hễ kể đến Lưu Bị bại, thính giả nức nở khóc; kể đến Tào Tháo bại, mọi người vỗ tay hả hê. Tối thiểu cho thấy, đến thời Bắc Tống, Tào Tháo đã là kẻ không được ưa. Vậy vì sao ông không được ưa? Ông đã làm những gì khiến người ta chán ghét? Đại khái có ba điều:

Một là bảo Tào Tháo gian trá. Nhưng điểm này không tính, vì binh bất yếm trá—đánh trận ắt có mưu kế lừa địch. Ta bảo địch thì gọi gian trá xảo quyệt; nói ta thì gọi thông minh mưu lược—kỳ thực một chuyện cả.

Điều thứ hai là nói ông đoạt Hán. Việc này can gì đến ta? Vì sao hoàng đế của triều đại ấy nhất định phải họ Lưu? Sao không thể là họ Tào? Bảo họ Tào thay họ Lưu tức là gian—lý không thông.

Điều thứ ba—bị dân gian ghét nhất—là câu nói của Tào Tháo: “Ning nguyện ta phụ người đời, chớ để người đời phụ ta.” Một người thà phụ cả thiên hạ chứ không cho thiên hạ phụ mình—kẻ ấy quá ác, nên dân ghét Tào Tháo. Vậy ta phải làm rõ: chuyện ấy có thật không? Nếu không thật thì há chẳng phải là án oan? Nếu oan, chẳng phải ta nên rửa oan cho Tào Tháo ư?

Về việc này, sử sách ghi chép mâu thuẫn. Đại khái như sau: vì Đổng Trác muốn hại ông, Tào Tháo trốn khỏi kinh thành, đi ngang nhà bạn cũ tên Lữ Bá Xá; khi Tào đến thì Lữ Bá Xá không có nhà, từ đó xảy ra thảm án Tào Tháo giết cả nhà Lữ Bá Xá.

Câu chuyện có ba phiên bản. Phiên bản thứ nhất: Lữ Bá Xá vắng nhà; con của Lữ và khách trong nhà thấy Tào mang nhiều tiền của, nảy lòng cướp, lại còn dắt ngựa của ông đi. Lúc ấy Tào rút kiếm chém chết bọn họ—gọi là tự vệ chính đáng. Chuyện này chép trong Ngụy thư—do người nước Ngụy viết; chưa chắc đã đáng tin, vì Tào Tháo là Thái Tổ của họ—có thể bao che cho Tào.

Phiên bản thứ hai: Tào Tháo trọ trong nhà Lữ Bá Xá, nghe bọn trẻ lục đục nồi niêu xoong chảo; bản thân lại là tội phạm bị Đổng Trác truy nã, sinh nghi—“nghi kỳ đồ kỷ”—bèn giết nhầm cả nhà Lữ Bá Xá. Gọi là ngộ sát.

Phiên bản thứ ba: cũng không khác mấy—Tào nghi người nhà Lữ hại mình, rồi giết cả nhà họ. Giết xong, Tào bi thương nói: “Ninh ngã phụ nhân, 毋人 phụ ngã.” Giờ ta thử xét phiên bản ba: cho dù ta tin rằng Tào đã ngộ sát, và đã nói câu ấy, thì ngữ cảnh là gì? Ấy là Tào nghi quá—quá đáng—nên giết nhầm; giết xong mới nhận ra, bèn bi thương thốt lời. Chữ “bi thương” rất quan trọng—giết lầm, lòng đau xót: “Thôi thì, thà ta phụ người, chớ để người phụ ta.” Đặt vào ngữ cảnh ấy, lời Tào là tự an ủi, tự giải tỏa, gượng gạo biện hộ cho lỗi lầm của mình. Đến Tam Quốc Diễn Nghĩa, câu nói ấy lại thành “đường hoàng lý lẽ”, còn gắn thêm hai chữ “thiên hạ” lên trước “ta phụ người”—khác xa. Khi ấy Tào chỉ nói theo việc mà nói: ta sai, giết nhầm, có lỗi, nhưng bất đắc dĩ, đường cùng nên đành “thà ta phụ người, chớ để người phụ ta”. Ở đây, vẫn còn chút thiện ý. Vào Diễn Nghĩa, lại biến thành vênh vang: “Ta phụ thiên hạ, chớ để thiên hạ phụ ta”—vậy thì đúng là đại gian tặc.

Cho nên, cái gọi là Tào Tháo gian hiểm độc ác, nên đặt dấu hỏi. Dẫu vậy, Mao bình trong Diễn Nghĩa vẫn nói: “Thử diệc Mạnh Đức chi quá nhân xứ dã.”—“Đây cũng là chỗ Mạnh Đức hơn người.” Vì sao? Đổi là người khác, ắt sẽ nói ngược: “Thà thiên hạ phụ ta, chớ để ta phụ thiên hạ.” Miệng ai cũng nói vậy, nhưng rốt cuộc họ làm y như Tào. Chỉ có Tào là thẳng thắn nói ra—cho nên tuy gian, nhưng trong gian có thành; ít nhất dám công khai nói lời gian. Ông là “tiểu nhân thật”, không phải “quân tử giả”. Ấy là chỗ hơn người của Tào Tháo—vì giả quân tử trên đời quá nhiều.

Thành thực trong gian trá, chính là một đặc trưng tính cách của Tào Tháo. Nói Tào gian, không chối; nhưng ông cũng có mặt thẳng thắn, thậm chí đáng yêu. Hãy xem những mâu thuẫn trong tính cách Tào Tháo.

Trước hết nói gian. Ví dụ điển hình là một chuyện trong chiến tranh Tào–Viên. Ta biết thời Tam Quốc có ba đại chiến dịch: Quan Độ (Tào–Viên), Xích Bích (Tào–Tôn), Di Lăng (Tôn–Lưu). Sau Quan Độ, Tào Tháo định vị địa位 lịch sử. Trận ấy cực kỳ gian nan. Hai quân giằng co, lương thảo quân Tào cạn. Đánh giặc ngoài dũng khí, binh khí, thực lực, còn phải đọ lương, “Binh mã vị động, lương thảo tiên hành”; không có lương thì không thể đánh. Lúc ấy Tào gần như đứt lương, bó tay.

Bấy giờ trong doanh Viên Thiệu có mưu sĩ Hứa Du đột ngột quy hàng. Tào nghe tin, mừng rỡ—“tiễn túc nhi xuất”—chân trần chạy ra. Vì sao chân trần? Có hai khả năng: một là không kịp xỏ giày—đang rửa chân hay gì đó, nghe tin Hứa Du đến, mừng quá chạy ra; hai là tỏ lòng tôn kính, vì cổ lễ xem đi chân đất là tôn kính. Về sau, khi Tào địa位 rất cao, Hiến Đế ban đặc ân: “kiếm lý thượng điện”—được đeo kiếm, đi giày lên điện. Điều này cho thấy người thường không được đi giày khi bái kiến. Có được đi tất không? Tùy địa位: địa位 cao thì “hỏa nhi đăng tịch”—đi tất bước lên chiếu; thấp hơn thì phải chân trần. Vậy chân trần có thể là tỏ kính.

Tào chân trần xông ra, vỗ tay cười lớn: “Tử Viễn, ngươi đến rồi! Ngô sự tế hĩ—việc ta đã có lối.” Rồi mời Hứa Du vào trướng. Hứa hỏi: “Quân lương thượng hữu kỷ hà”—còn bao lương? Tào: “Đủ dùng một năm.” Hứa: “Sai, nói lại.” Tào: “Nửa năm.” Hứa: “Lại sai—gặp bạn cũ còn không nói thật. Nói thật đi, cho cơ hội nữa.” Tào: “**Thôi… chỉ đủ một tháng.” Rồi Tào nói câu Lưu Bang rất ưa: “Vi chi nại hà—làm sao bây giờ?” Hứa Du bảo: “Công cô quân độc thủ, ngoại vô cứu viện, nhi lương cốc dĩ tận—thử nguy cơ chi nhật dã.” Rồi chỉ kho lương của Viên ở đâu, có đường nhỏ nào, khuyên Tào dẫn khinh kỵ đốt lương, “bất xuất tam nhật, Viên quân tất loạn”.

Tào đích thân dẫn năm nghìn kỵ, đêm vượt đường nhỏ, mặc quân phục Viên, gặp gác trạm thì nói “Viên công phái đến…”; xông vào doanh Viên. Bên Viên thấy quân Tào tới đốt lương, dĩ nhiên tử chiến; tình thế căng như dây đàn. Tả hữu chạy tới: “Công, địch tới!” Tào: “Hoảng gì? Chờ địch tới sau lưng ta, hẵng báo. Tiến!” Rốt cuộc đốt sạch lương của Viên, chuyển xoay cục diện.

Vậy thấy Tào có gian; nhưng tôi cho rằng nhiều khi bị thời thế ép. Trong hoàn cảnh hiểm ác như thế, nếu việc gì cũng nói thật, sao thắng địch? Ông không thể không nói dối, thậm chí thành thói quen.

Tào cũng là người có ấm tình. Trong chiến tranh với Trương Tú, trưởng tử Tào Ngang tử trận; Đinh phu nhân—nguyên phối của Tào—đau đớn không sống nổi. Đinh phu nhân là chính thất, không sinh nở; thiếp của Tào sinh trưởng tử là Tào Ngang; sinh xong người mẹ qua đời, Tào Ngang giao cho Đinh phu nhân nuôi, bà coi như con ruột, tình thâm. Sở dĩ Tào thua trận, vì ông đắc ý vong hình: đánh Trương Tú chưa bao lâu, Trương Tú hàng; Tào không chỉ thu quân của Tú, còn thu luôn thím của Tú—một mỹ nhân. Tào hảo sắc, đi đâu cũng thu nhận mỹ nữ; thu thím của Trương Tú làm Tú mất mặt, lại thêm nguyên cớ khác, Tú phản, đột tập. Trận ấy Tào Ngang chết, đường đệ Tào An Dân chết, ái tướng Điển Vi chết. Đinh phu nhân oán hận, khóc lóc đòi con: “Trả con cho ta! Con ta đâu?” Lại mắng: “Chính ông—suốt ngày lăng nhăng gái gú—hại chết con tôi!” Không nguôi. Tào bực, quát “Cút! Về nhà mẹ đẻ đi!”—Bà về thật.

Vài tháng sau, Tào hối hận, tự đánh xe đến nhà mẹ đẻ đón. Chuyện này thời nay thì thường, vợ chồng cãi, vợ về nhà mẹ, chồng nói ngọt rước về. Tào mà làm vậy thì khó—tính Diêm Vương mà! Đinh phu nhân ở nhà dệt vải. Tào đến, bà không đứng dậy, không thèm đoái. Tào ngượng ngập: “Dệt đấy à… thôi đừng dệt nữa, theo ta về nhà nhé…” Rồi đi lại, đưa tay vuốt lưng: “Thôi nào, đừng giận nữa, bảo bối, về nhà với ta được không? Mình cùng ngồi xe về nhà nhé?”—Động tác “phủ kỳ bối” rất quan trọng: vuốt lưng là cử chỉ yêu thương của đàn ông. Đinh phu nhân vẫn “khắc… khắc…” (dệt). Tào quê: “Không về à? Không về ta… đi thật đấy!”—“Khắc… khắc…” Tào ra cửa, ngoái lại: “Thôi mà, về nhé?”—“Khắc… khắc…” “Xem ra duyên vợ chồng đến thế thôi, mặc vậy.” Rồi tìm nhạc phụ: “Con có lỗi với con gái ngài; nhưng nàng không chịu về. Thôi, nàng còn trẻ, xin đừng bắt thủ tiết—ngài gả nàng đi.”

Với tính sắt đá của Tào, làm được vậy là rất khó—cho thấy ông trọng tình. Rốt cục cha vợ không dám gả, Đinh phu nhân không tái giá. Chắc là cha vợ không dám, bà không muốn, mà cũng không ai dám cưới—ai dám lấy vợ cũ của Diêm Vương? Chuyện này Tào canh cánh. Lúc lâm chung, ông nói: “Đời ta có việc tốt, có việc xấu; thành công có, sai lầm có—ta không để bụng. Chỉ một chuyện: xuống cửu tuyền, nếu Tử Hưu—tức Tào Ngang—khóc đòi mẹ, ta không biết đáp sao.” Bao lỗi lầm trong đời, ông lại cho lỗi lớn nhất là đánh vợ bỏ đi! Đủ thấy Tào đa tình, nặng tình—ấy là ấm tình của Tào Tháo.

Nhưng bảo Tào nhu hòa thì sai. Ông rất tàn nhẫn, trở mặt là không nhận. Thí dụ Hứa Du. Hứa quy hàng lập công quyết định, nên đắc ý, hay gọi Tào bằng tên cúng cơm: “A Man”—chứ không “Tào công”, “Minh công”, “Thừa tướng”. Tào có hai tiểu danh: Cát Lợi và A Man. Hứa hay vênh: “Không có ta, A Man đâu có hôm nay!” Tào đành cười trừ: “Vâng vâng, đúng vậy.” Nhưng Hứa nhắc hoài, khó chịu lắm. Như bạn tặng tôi cái áo, tôi mặc đẹp thì mừng; nhưng mỗi lần tôi mặc, bạn lại đứng lên bảo mọi người: “Mọi người xem, áo của anh ấy là tôi tặng đấy; không có tôi, anh ấy chẳng có áo mà mặc!”—tôi vui sao nổi? Huống là Tào Tháo. Một lần hạ Nghiệp thành, Hứa lại khoe: “Không có ta, nhà họ Tào chẳng vào nổi đây!” Tào chịu hết nổi—giết. Đó là độc của Tào.

Giết người có ơn như Hứa Du, nhưng lại tha nhiều kẻ phụ mình. Như người tên Ngụy Chủng—xưa là thuộc hạ. Lúc Tào lâm nghịch cảnh, nhiều người phản bội. Tào tự tin: “Cứ để họ đi—người của ta sẽ không đi hết; như Ngụy Chủng, sẽ không phản.” Kết quả, Ngụy Chủng cũng chạy. Tào giận: “Hay cho ngươi! Có giỏi trốn Hung Nô ở Bắc, hay lẩn xuống Giao Chỉ ở Nam; không trốn xa nổi, ta bắt về, không tha!” Sau trận sau, Ngụy Chủng bị bắt. Ai cũng toát mồ hôi: Tào ắt giết. Tào nghĩ rồi bảo: “Thôi, Ngụy Chủng là nhân tài—tha; chức gì vẫn chức ấy.” Ấy là khoan dung của Tào.

Tào quả khoan dung. Khi đánh Viên Thiệu, Viên mời văn sĩ Trần Lâm thảo hịch văn—tức tờ sớ công kích đối phương để “sư xuất hữu danh”. Trần Lâm bút lực mạnh, ngàn lời như nước, mắng Tào từ tổ tông—đó là tật xấu văn hóa: mắng là đụng tới cha mẹ tổ tiên. Sau Viên bại, Trần Lâm bị bắt. Đưa tới, Tào nói: “**Trần Lâm à, hai quân giao chiến, viết hịch văn là bình thường. Nhưng chửi ta thì thôi, chửi cha mẹ ta làm gì—họ không đắc tội với ngươi—không hay!” Trần: “Xin lỗi, tên đã lên dây, buộc phải bắn.” Tào: “Được, thôi vậy. Ngươi cũng là nhân tài—vẫn làm bút sĩ nhé.” Về sau Trần Lâm thành bút hạ của Tào. Khoan dung biết bao!

Nhưng Tào lại cực thích báo thù: đã đắc tội thì khó thoát. Khi ấy có danh sĩ Biên Nhượng—đại học giả, đại văn gia—khinh Tào. Vì xuất thân Tào không tốt: ông nội là thái giám. Đông Hán bị hoạn quan làm hỏng, nên sĩ đại phu căm ghét nhất hoạn quan. Cha Tào là nghĩa tử của thái giám, Tào thành con cháu nhà hoạn—họ khinh. Biên Nhượng nói nhiều lời nhục mạ. Sau Tào chiếm được đất ấy, không nương tay, giết Biên Nhượng. Cùng vụ còn mấy văn nhân khác: có người chạy, không thoát, rồi về tự thú. Trong đó Hoàn Thiệu quỳ lạy, khóc lóc xin tha. Tào cười lạnh: “**Khóc à? Sợ rồi à? Quỳ à? Xin tha à? Quỳ là không giết chắc? Xin là không giết chắc?—Lôi ra, chém!” Việc này tiếng xấu rất lớn, khơi dậy một cuộc phản loạn: “Sao lại đối đãi văn nhân như thế? Sao đối đãi người từng đắc tội như thế?”

Trong số ấy có Trần Cung. Diễn Nghĩa nói Trần Cung rời bỏ Tào vì vụ Lữ Bá Xá—không đúng. Sử thực: vì Tào giết Biên Nhượng, Hoàn Thiệu, Trần Cung không chịu nổi, rời Tào, chết lòng theo Lã Bố đánh Tào. Về sau Lã Bố bại, Trần Cung bị bắt; Tào không muốn giết, nói: “Chỉ cần ngươi hàng, dĩ vãng bất cứu.” Lúc này Tào cũng tự biết cách làm trước đây không ổn: tể tướng bụng chứa thuyền, tướng quân trán cho ngựa chạy—phải có phong độ đại tướng—nên không giết Trần Cung. Nhưng Trần Cung quyết không hàng; Tào bất đắc dĩ giết. Trước khi hành hình, Tào hỏi: “Công Đài à Công Đài (tự của Trần Cung), ngươi chết rồi, mẫu thân ngươi biết làm sao?” Trần Cung: “Tôi nghe, người lấy hiếu trị thiên hạ không hại cha mẹ người ta. Mẹ tôi thế nào, xin Cao Công (Tào công) liệu.” Tào: “Được.” Lại hỏi: “Vợ con ngươi làm sao?” Trần: “Tôi nghe, người lấy nhân trị thiên hạ không hại con trẻ người ta. Vợ con tôi ra sao, cũng xin Cao Công liệu.” Tào: “Thôi, ta tiễn ngươi lên đường.” Rồi khóc, đích thân đưa Trần Cung ra pháp trường; sau đó rước gia quyến Trần Cung về nhà mình, đối đãi còn tốt hơn trước khi trở mặt.

Cho nên Tào Tháo là người rất phức tạp. Ta vừa nói nhiều mặt, mà vẫn chưa hết. Vừa xảo trá lại thành thật; vừa ấm tình lại tàn độc; vừa khoan dung lại báo thù. Nếu bạn chỉ xem một chuyện, chỉ nhìn một mặt, thì kết luận như thầy bói xem voi—không toàn diện. Theo tôi, Tào Tháo có lẽ là nhân vật tính cách phức tạp nhất, hình tượng đa dạng nhất trong lịch sử Trung Hoa. Thông minh tột đỉnh, lại ngu si không bờ; xảo quyệt gian trá, lại thẳng thắn chân thành; khoáng đạt đại độ, lại đa nghi quỷ quái; khoan hồng rộng lượng, lại bụng dạ hẹp hòi. Phong thái đại gia, bộ mặt tiểu nhân; khí khái anh hùng, tình ý nhi nữ; tính khí Diêm Vương, tấm lòng Bồ Tát. Ông tựa nhiều gương mặt: lúc hiện mặt này, lúc hiện mặt kia—nhưng dù mặt nào, cũng là Tào Tháo, không lẫn người khác. Hợp nhất biết bao mâu thuẫn vào một con người, tự nó đã ghê gớm. Ấy là cái “đại khí” của Tào. Đại khí là gì? Biển dung trăm sông, có dung mới lớn. Tào chính là người biết dung, dung lượng cực lớn—bao nhiêu điều trái ngược đều hợp nhất nơi ông.

Lại nữa, trọn đời xảo trá, cuối cùng trở về chân thực. Gần mất, Tào để lại di lệnh—tức di chúc. Người lớn viết di chúc thường có khuôn mẫu: kể công lao, tự kiểm, dặn mai táng… Di chúc Tào không thế: rất ít nhắc sự nghiệp chính trị—chỉ nói: “**Đời ta làm nhiều việc, đúng có, sai có, tổng thể là đúng; những lỗi nhỏ, lúc nóng giận, các ngươi chớ học theo.” Hết một câu, rồi lải nhải chuyện nhà: “Ta chết rồi, hương liệu trong nhà chia ra, đừng phí. Tiểu thiếp của ta, ca nữ của ta, một đời cực nhọc, phụng sự ta rất chu đáo, đừng bạc đãi họ, cho ở tiếp Đồng Tước đài, đừng đuổi. Rảnh rỗi học dùng dải lụa đan dép cỏ; phòng khi nhà họ Tào phá sản, còn mang dép ra bán đổi bát cơm.” Lải nhải đầy chuyện vặt. Bởi vậy, đương thời không ưa di chúc ấy: “Đại anh hùng gần chết không nói hào ngôn tráng ngữ, không khích lệ hậu nhân, lại ‘chia hương bán dép, luyến lụy thê thiếp’—thành thể thống gì!” Đến cả Tô Đông Pha cũng chấm tám chữ: “Bình sinh gian ngụy, tử kiến chân tính”—“Sống cả đời gian trá, chết lộ chân tướng”—đuôi cáo lộ; tiểu nhân là thế.

Tôi xưa nay kính trọng Tô Đông Pha, nhưng với câu này thì không tán đồng. Tôi cho rằng di chúc ấy chính là đại khí của Tào. Ta không nói hào ngôn, không kể công trạng, không bàn đại sự quốc gia—ta chỉ nói chuyện nhỏ. Các người làm gì được ta? Bảo ta là tiểu nhân, thì ta là tiểu nhân—thì đã sao? Ta là Tào Tháo; ta chẳng bận tâm các người đánh giá ta thế nào—ta vốn là con người như vậy. Đó gọi là: “Duy đại anh hùng năng bản sắc; thị chân danh sĩ tự phong lưu.” Giữ được bản sắc đến thế, chứng tỏ ông là anh hùng, lại là đại anh hùng! Có điều, anh hùng này rất xảo trá, nên là “gian”; anh hùng lại “gian”—gian hùng. Mà gian hùng ấy lại rất đáng yêu. Bởi vậy, theo tôi, đánh giá chuẩn về Tào Tháo là năm chữ: “Gian hùng đáng yêu.” Còn ông “gian hùng” thế nào, đáng yêu ra sao—mời xem tập sau “Bí ẩn gian hùng”. Xin cảm ơn.

5/5 - (2 votes)

DONATE

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM