Ngày 28 tháng 8 năm 1634, bác sĩ Peter Chamberlen được triệu đến họp với Royal College of Physicians (Trường Đại học Y sĩ) để giải trình về một đề xuất mà gần đây ông đã trình lên nhà vua nhằm tổ chức lại giới bà đỡ—một văn bản ông không buồn cho các y sĩ xem. Viên thư ký ghi lại diễn biến:
“Bà Hester Shawe và bà Whipp, hai bà đỡ, trình một bản thỉnh cầu lên College. Khi đọc, thấy rằng nó chỉ liên quan đến riêng bác sĩ Chamberlen, về việc lập ‘Hội bà đỡ’ và chính ông ta làm người đứng đầu. Bác sĩ Chamberlen yêu cầu được sao chép bản thỉnh cầu, nhưng bị từ chối, trừ khi ông nộp cho College các điều khoản đã đề trình lên Nhà vua; hoặc ông phải đưa vụ việc ra trước Ban Giám sát (Censors), điều ông từ chối.”
Chamberlen khinh thường việc cung cấp thêm chi tiết cho giới y sĩ về những gì ông đã thỉnh cầu nhà vua; đáp lại, họ cũng từ chối cho ông biết trong bản thỉnh cầu của giới bà đỡ có gì. Cuộc họp kết thúc; hai tuần sau họ nhóm lại, mang theo các lời chứng từ y sĩ và bà đỡ nhằm bôi nhọ nhân cách và chuyên môn của Chamberlen. Họ kết luận: “(Chúng tôi) khiêm tốn đề nghị buộc bác sĩ Chamberlen thôi không được quấy rối chính mình và giới bà đỡ bằng những cuộc họp vô căn cứ cùng các diễn thuyết thừa thãi và phù phiếm như vậy.”
Chamberlen không chịu dừng, và trận chiến của ông với College of Physicians còn lâu mới kết thúc. Thực tế, đó chỉ là một chương trong câu chuyện dài về dòng họ Chamberlen—năm thế hệ thầy thuốc đã dành hơn một thế kỷ chuốc lấy tranh cãi vì những ý tưởng cấp tiến về sản khoa và nghề bà đỡ.
Một gia đình phẫu thuật
Gia đình Chamberlen—William, vợ là Genevieve, và các con Peter, Simon, Jane—cập bến cảng Southampton ngày 3 tháng 7 năm 1569. Họ chạy trốn khỏi quê nhà nước Pháp, thoát khỏi cuộc chiến đẫm máu giữa đa số Công giáo và thiểu số Kháng Cách Huguenot đã kéo dài bảy năm và chưa có dấu hiệu dừng. Chừng 50.000 Huguenot tìm nơi trú ở Anh, và 250.000 người khác tản sang các nước Tin Lành ở châu Âu.
William là một phẫu thuật viên giàu kinh nghiệm—thứ mà một thành phố cảng rất cần, nơi mỗi con tàu cập bến lại mang theo phần việc cho thầy thuốc với những thủy thủ bệnh tật, thương tích. Gia đình ổn định nơi ở mới và sớm đón thêm con: James và một Peter nữa (về sau gọi là Peter Trẻ). Cả hai Peter được đào tạo như cha mình, theo nghề barber-surgeon (thầy cắt tóc kiêm phẫu thuật), những người chuyên về phần “cơ khí” của y học: trích máu, mổ xẻ, nắn xương. Trẻ trung, tham vọng, họ quyết định lên London tìm cơ hội, nơi dân số tăng nhanh đang kêu khát thêm nhiều thầy thuốc.
Gần như ngay lập tức, hai anh em vướng rắc rối với College of Physicians—cơ quan y tế tối cao của London. Thành lập năm 1518 dưới triều Henry VIII, College muốn kiểm soát giới hành nghề y trên cả nước, buộc bác sĩ phải có bằng cấp. College có quyền cấp giấy phép hành nghề ở London và phạt bất kỳ ai hành nghề trái phép. Thế nhưng vào bước sang thế kỷ 17, College liên tục và bất thành trong việc áp mình lên lực lượng hành nghề hỗn tạp và phần lớn không phép ở thủ đô. Năm 1600, chẳng hạn, Peter Trẻ thú nhận đã chữa giang mai bằng cách “tẩy xổ” (purging), vi phạm quy định cấm phẫu thuật viên kê thuốc. Năm 1607, biên niên College ghi ông lại bị tố kê đơn; ông bào chữa—không thành—rằng làm theo chỉ dẫn của nhạc phụ, bác sĩ William Delaune. Ông bị phạt năm Mark, vẫn không hối; các năm 1608 và 1609 lại bị phạt 40 shilling vì lỗi tương tự. Trong khi đó, Peter Cả phạm lỗi với College nhiều tới mức có lúc bị tống vào nhà giam Newgate. Ông được thả sau khi Tổng giám mục Canterbury can thiệp “theo lệnh của Nữ hoàng” (bệnh nhân cũ của ông), rồi cam kết tôn trọng thẩm quyền của College. Những màn co kéo như vậy giữa College và các nhóm hành nghề khác, đặc biệt là phẫu thuật viên, vốn rất thường. Nhưng điểm khác thường ở đôi anh em là sự quan tâm của họ đến lĩnh vực vốn thuộc nữ giới—nghề bà đỡ.

Ở thế kỷ 17, như đã hàng thế kỷ trước, phụ nữ sinh nở do bà đỡ đỡ sinh, được hỗ trợ bởi bạn bè, họ hàng nữ—gọi là “gossips”. Bà đỡ học nghề ngay cạnh các bậc tiền bối và không bắt buộc phải có giấy phép để hành nghề. Nếu muốn có giấy phép nhằm nâng uy tín (và do đó tăng thù lao), họ có thể xin Giám mục địa phương, nộp thư chứng nhận có chữ ký xác nhận họ thạo nghề, đạo hạnh và lương thiện. Tháng 2/1693, chẳng hạn, sáu phụ nữ ở Herefordshire bảo đảm với Giám mục rằng: “Frances Thomas… là người rất phù hợp và thành thạo để đảm nhận thiên chức và công việc của một bà đỡ… luôn sẵn sàng giúp đỡ láng giềng trong cơn nguy khốn, đến với người nghèo cũng như người giàu.” Dưới cơ chế chắp vá ấy, trình độ bà đỡ chênh lệch rất lớn. Một số dễ bị “đuối nước”; còn những người giỏi có nhiều “ngón nghề” xoay trở thai ngược ngôi. Nhưng nếu thai kẹt quá lâu đến mức bị cho là đã chết trong bụng, thì ngay cả bà đỡ giỏi nhất cũng bất lực. Lúc đó chỉ còn gọi phẫu thuật viên.
Vai trò của phẫu thuật viên trong phòng sinh thường rất nghiệt ngã. Mổ lấy thai (Caesarean) chỉ thực hiện khi người mẹ đã chết; mạng sống người mẹ luôn ưu tiên hơn thai nhi. Thay vào đó, phẫu thuật viên dùng bộ đồ nghề để lấy thai: chiếc crochet là dụng cụ móc dài, dùng kéo thai ra, thường móc vào lỗ trên sọ do perforator (dùi đục) tạo nên. Cả hai đều có nguy cơ rách tử cung chết người cho mẹ và chấn thương không thể sống sót cho con, nên chỉ dùng khi cực chẳng đã. Trong bản thảo “Remembrances” đầu thế kỷ 18, quý bà Elizabeth Freke kể ngày 25/6/1675, sau “4 hay 5 ngày” chuyển dạ với đứa con đầu, “cả bốn bà đỡ đều khẳng định nó đã chết trong bụng tôi nhiều giờ.” Sợ Elizabeth chỉ còn sống được vài giờ, các bà đỡ và người chồng là Percy đồng ý với phẫu thuật viên rằng “con trai tôi sẽ bị lấy ra từng mảnh khỏi tôi”, nhưng “khi người đàn ông ấy đang mặc đồ như đồ tể để làm việc”, một bà đỡ mới xuất hiện và sau vài giờ kỳ diệu đưa được đứa bé ra còn sống, dù “trên đầu có vài lỗ lớn.” Đứa trẻ, đặt tên Ralph theo tên cha của Elizabeth, đã sống đến tuổi trưởng thành.
Vì thế, bác sĩ-phẫu thuật sản khoa vừa là nguồn an ủi vừa là nỗi khiếp sợ. Với người giàu, có phẫu thuật viên túc trực khi chuyển dạ là một xa xỉ trấn an. Nhưng nếu phải dùng đến ông ta, kết cục hiếm khi tốt đẹp.
Một thế hệ mới
Với hai Peter, tình trạng này có vấn đề. Nếu sinh nở nguy hiểm như vậy, sao có thể để mặc những bà đỡ không qua giáo dục chính quy? Dẫu sao, mọi sách vở sản khoa thời ấy đều do đàn ông viết (dù vài người mang những ý tưởng kỳ quặc về mang thai—khoảng 1659, “bác sĩ tương lai” John Ward ghi trong nhật ký rằng ông tin thai nhi hít thở không khí đi vào từ “chỗ kín” của người phụ nữ!). Dòng sách đều đặn—tựa như The Happy Deliverie of Women (1612) của Jacques Guillemeau, hay The Expert Midwife (1637) của Jakob Rüff—phản ánh nỗ lực chung của y sĩ và phẫu thuật viên nhằm xâm nhập mảng sinh nở béo bở, khi họ tìm cách chuẩn hóa (và nam giới hóa) thực hành y học.
Năm 1616, khi các bà đỡ London thỉnh cầu được công nhận như một hội nghề tương tự dược sĩ hay phẫu thuật viên, hai Peter thấy cơ hội thúc đẩy chương trình của mình và đề nghị chính họ làm người giám sát nhóm. Đề nghị được chuyển qua Francis Bacon (khi đó là Tổng chưởng lý) đến College of Physicians. Tuy nhiên, đề xuất bị gạt phăng. Lâu nay, College xem phẫu thuật viên—những người học nghề qua đào tạo thực tập chứ không phải đại học—là thấp kém hơn bác sĩ, hoàn toàn không đủ tư cách giám sát người khác. Biên bản cuộc họp ngày 21/2/1616 ghi:
“Với Peter Chamberlen Trẻ, kẻ trơ tráo bênh vực cho mấy người phụ nữ này, người ta đặt câu hỏi rằng: nếu đưa một ca sinh khó cho bất kỳ thành viên nào của College, thì vị ấy há chẳng trả lời và đánh giá chính xác hơn bất kỳ phẫu thuật viên sản khoa nào sao; mặc cho lời khoe của hắn rằng hắn và anh hắn, và chỉ họ, là trội vượt trong lĩnh vực này.”

Peter Trẻ mất năm 1626, Peter Cả mất 1631. Họ thua trận đánh cải tổ nghề bà đỡ, nhưng cuộc chiến còn đó: hai trong tám người con của Peter Trẻ trở thành bác sĩ. Năng nổ nhất là người sinh năm 1601, tự xưng “Bác sĩ Peter” trong thư từ. Giống cha, ông thông minh và đầy tham vọng; năm 1634 ông trình lên Thượng viện (House of Lords) đề nghị ông trở thành lãnh đạo một “Hội Bà đỡ London” mới. Nhưng ông có tài gây thù. Đáp lại chiến dịch năm 1634, College thu thập nhiều thư đả kích từ các bà đỡ tố Peter hách dịch, bắt họ họp ở nhà ông chỉ vì những cớ vụn vặt và đòi ăn chia một phần thù lao của họ. Tệ hơn, ông “thường từ chối đến với người nghèo, vì họ không đủ tiền trả theo đòi hỏi của ông; còn người giàu, ông không giúp cho đến khi mặc cả được khoản thưởng lớn.” Họ lập luận, thực chất ông muốn “độc quyền toàn bộ thực hành với phụ nữ sinh nở… làm mất mặt mọi bác sĩ khác và nô dịch những người thỉnh cầu.” Thượng viện bác đề xuất của Chamberlen.
Trong cuốn A Voice in Rhama: or, the Crie of Women and Children (1647), Bác sĩ Peter tung ra đòn đáp trả giận dữ, buộc tội các “kẻ thù bí mật” ghen tị với kiến thức “chữa bệnh phụ nữ” của ông, và mạt sát các nhà chức trách y khoa cứng nhắc, không chịu chấp nhận cái mới:
“Lập luận ấy suy ra rằng: bởi chưa từng có quy định nào về việc đào tạo và quản lý bà đỡ, thì vĩnh viễn sẽ không được có. Bởi hàng đống người đã chết, thì họ vẫn phải chết. Bởi tổ tiên chúng ta không cung cấp phương dược nào, không biết phương dược nào, thì chúng ta cũng không được cung cấp, dẫu chúng ta biết.”
Một lần nữa, dự án của nhà Chamberlen tưởng như lại tiêu tan, nhưng Bác sĩ Peter còn hai quân át. Đầu tiên là con trai ông, Hugh, một trong 18 người con. Hugh sinh vào khoảng 1630–1634, và đến các thập niên 1660–1670 thì anh và cha cùng làm việc. Quân át thứ hai còn mới mẻ hơn nhiều. Trong sự nghiệp dài của họ, Hugh và Bác sĩ Peter (và có lẽ cả cha và chú của ông trước đó) đã nghĩ ra một phương án thay thế cho crochet và perforator của các bậc tiền bối. Dụng cụ mới trông như một chiếc kéo khổng lồ, đầu mỗi “lưỡi” uốn hình chiếc muỗng. Họ gọi nó là kẹp forceps.
Bí mật của kẹp forceps
Trong nhiều năm, các phẫu thuật viên đã dùng những loại kẹp hẹp, giống chiếc kéo, cho nhiều mục đích khác nhau, bao gồm nhổ răng và lấy thai chết (thường là từng mảnh) ra khỏi tử cung, nhưng chúng chưa được dùng rộng rãi trong sản khoa. Kẹp forceps của nhà Chamberlen có tiềm năng cách mạng hóa nghề bà đỡ bằng cách cho phép thao tác với em bé theo cách tương đối an toàn cho cả mẹ lẫn con. Khi đó cũng như bây giờ, chúng có thể thúc đẩy cuộc sinh khi người mẹ kiệt sức không rặn được, hoặc khi em bé ở tư thế khó. Tuy nhiên, nhà Chamberlen hiểu rằng một phát minh như thế—có thể giúp giảm bớt nỗi đau và hiểm nguy của sinh nở—ắt phải đáng giá tiền. Năm 1670, 101 năm sau khi cụ cố của ông trốn khỏi nước Pháp, Hugh Chamberlen vượt eo biển sang Paris. Người đồng nghiệp phía Pháp của ông, phẫu thuật viên Paris François Mauriceau, sau này kể lại trong Observations sur la grossesse et l’accouchement des femmes (1694) rằng Hugh đến nơi, nói về một bí mật có thể đỡ đẻ trong vài phút, và đòi 10.000 crown (khoảng 280.000 bảng theo giá trị ngày nay). Mauriceau được giao nhiệm vụ kiểm chứng lời tuyên bố này. Hai người có nhiều điểm chung—họ cùng lứa tuổi và, giống Chamberlen, Mauriceau từ lâu cũng vận động cải tổ nghề bà đỡ. Trong cuốn Traité des maladies des femmes grosses (1668) bán rất chạy, ông cho biết chính em gái mình đã qua đời vì thứ mà nay ta gọi là nhau bong non, tức nhau thai tách khỏi thành tử cung trước khi sinh. Ông tiếp tục nghiên cứu 592 ca sinh khó trong 30 năm tiếp theo. Trong số 230 ca tử vong ở trẻ sơ sinh, ông thấy phần lớn liên quan đến sẩy thai, thai lưu, hoặc trẻ đã chết trong bụng mẹ, nhưng có bảy ca ông cho rằng lực do bà đỡ hay phẫu thuật viên sử dụng là nguyên nhân, và thêm 21 ca có chảy máu nguy hiểm hoặc tử vong.

Tại bệnh viện chính của thành phố, Hôtel-Dieu ẩm thấp tăm tối, Mauriceau đưa cho Hugh một sản phụ có khung chậu bị còi xương làm biến dạng, và đứa trẻ đã bị kẹt cứng nhiều ngày. Nỗ lực dùng forceps để đỡ đẻ của Hugh thất bại. Mauriceau thuật lại trong Observations rằng cả mẹ và con đều chết trong vòng 24 giờ, và khám nghiệm tử thi cho thấy forceps đã làm vỡ tử cung. Dẫu vậy, Hugh vẫn thu được chút gì đó từ chuyến đi tai hại ấy. Mauriceau đồng ý để ông dịch và viết lời tựa cho bản tiếng Anh của Traité des maladies; một cơ hội lý tưởng để Hugh và cha ông khởi động chiến dịch quảng bá trên sân nhà. Hugh nói với độc giả rằng:
Cha tôi, các anh em tôi và chính tôi (dù tôi không biết còn ai khác ở châu Âu) nhờ ơn Chúa và sự chuyên cần của chúng tôi, đã đạt tới và từ lâu thực hành được một cách đỡ đẻ trong trường hợp này [tức đầu thai nhi đã xuống mà bị kẹt] mà không làm hại gì cho người mẹ hay đứa trẻ: trong khi tất cả những người khác… đều làm, và buộc phải làm, cho một trong hai, nếu không phải cả hai, gặp nguy hiểm, nếu không là tử vong, khi dùng những chiếc móc này. Nhờ thao tác bằng tay này, chúng tôi cũng có thể rút ngắn thời gian và giảm bớt số cơn đau trong một ca sinh thường (nếu có chút khó khăn) mà không nguy hiểm, lại có lợi cho cả mẹ và con.
Vấn đề duy nhất là hai cha con vẫn ngần ngại không chịu từ bỏ quyền đối với bí mật của mình, và dường như chẳng ai đặc biệt quan tâm đến nó cả. Năm 1678, hoặc Hugh hoặc Bác sĩ Peter đề xuất với triều đình rằng bí mật này có thể được truyền cho “2 người hoặc nhiều người kín đáo” ở mỗi hạt, nhưng đề nghị của họ không được hồi đáp. Thói quen “xỏ tay vào nhiều chiếc bánh” của họ, cộng với các hoạt động của người nhà, đã làm rẻ rúng thanh danh của họ. Một người anh em thì bán “chuỗi hạt giảm đau” (anodyne necklaces), loại hạt đeo cho trẻ để giảm đau mọc răng. Bất chấp hàng loạt bằng cấp, Bác sĩ Peter vẫn đi rao bán bồn tắm và trong một lá thư năm 1680 gửi Tổng giám mục Sancroft, ông phàn nàn rằng những “bà tám quán rượu” (Ale House Gossips) và “kẻ thù miệng lưỡi bẩn thỉu” đã cáo buộc ông là người Do Thái. Hugh từng giữ vị thế danh giá là ngự y, nhưng nay mất vinh dự đó. Hơn nữa, thời gian đang cạn dần. Bác sĩ Peter qua đời ở tuổi 82 vào năm 1683, gần 50 năm sau khi kế hoạch lập Hội Bà đỡ London của ông bị bác bỏ.
Năm 1687, Hugh lại một lần nữa cố xin bằng độc quyền (patent) “liên quan đến nghề bà đỡ”, nhưng không thành. Tuy vậy, ông không từ bỏ việc hành nghề, cũng chẳng bỏ tham vọng. Ngay sau khi hồ sơ xin patent thất bại, ông bị triệu ra trước College of Physicians với cáo buộc hành nghề sai trái sau khi điều trị cho một phụ nữ mang thai bằng cách cắt máu và cho tẩy xổ (thuốc nhuận trường và gây nôn), sau đó người này bị sẩy thai. Đây là một sai sót đáng xấu hổ, vì các thuốc mạnh như vậy gần như luôn bị khuyến cáo tránh dùng cho phụ nữ mang thai, và, không ngạc nhiên, ông bị loại khỏi ca sinh hoàng tử (một James khác) của James II năm 1688. Tuy nhiên, đến năm 1692, ông đã xoay xở lấy lại chút ưu ái, và nhận 100 guinea vì đỡ đẻ cho Công chúa Anne xứ Đan Mạch một bé trai.

Dần dần, dự án Chamberlen đi đến hồi kết. Hugh có bốn người con, trong đó con cả—cũng tên Hugh—đi theo truyền thống gia đình, trở thành bác sĩ với mối quan tâm đặc biệt đến sản khoa. Tuy nhiên, ông phá lệ ở chỗ là người tuân thủ luật lệ hơn là phá luật, và, giữa những lần phục vụ giới bệnh nhân thời thượng, ông còn làm censor (giám sát) cho College of Physicians. Xem chừng Hugh cha được “giữ trẻ” nhờ các cuộc vật lộn ấy. Về già, ông dời sang lục địa, nơi ông bán bí mật gia đình cho phẫu thuật viên Hà Lan Hendrik van Roonhuisen với khoản tiền không tiết lộ. Ông ít nhất cũng đã 90 tuổi khi qua đời năm 1728.
Đến lúc Hugh cha mất, kẹp forceps của nhà Chamberlen không còn là bí mật nữa, và việc sử dụng chúng dần lan khắp châu Âu. Năm 1735, Edmund Chapman xuất bản A Treatise on the Improvement of Midwifery, trong đó ông khẳng định forceps đã “nổi tiếng” và ông đã dùng chúng “nhiều năm”. Tuy nhiên, khúc ngoặt cuối cùng của câu chuyện vẫn còn ở phía trước. Năm 1818, ông H. Cawardine viết thư cho Royal Medical and Chirurgical Institute of London. Ông mô tả việc những người cư trú tại Woodham Mortimer Hall—ngôi nhà cũ của Bác sĩ Peter—đã để ý một tấm ván sàn có thể di chuyển. Khi họ nhấc lên, họ tìm thấy trọn bộ dụng cụ bí mật, nhiều khả năng do Chamberlen hoặc vợ ông cất giấu. Có kẹp forceps, và cùng với nó là một vectis—dụng cụ dài kiểu “giày nạo” để xoay hộp sọ em bé—và một fillet—ba dải kim loại mảnh, cong, gắn vào một tay cầm trung tâm, dùng để đưa em bé xuống ống sinh. Cả ba đều là phát minh của nhà Chamberlen. Cawardine nay chuyển những dụng cụ ấy cho Viện “để thỏa mãn trí tò mò của công chúng, và để bảo đảm cho Chamberlen phần vinh quang hậu thế xứng đáng với ông vì phát minh hữu ích nhất này”.
Cái giá của một bí mật
Lẽ ra nhà Chamberlen có nên giữ kín bí mật không? Nếu ta giả định Bác sĩ Peter phát minh forceps khi còn trẻ, khoảng năm 1630, thì việc gia đình kiên quyết kiếm tiền từ ý tưởng của mình đã khiến trôi qua cả một thế kỷ—trong đó rất nhiều bà mẹ và trẻ sơ sinh đã chết mà lẽ ra có thể được cứu bởi công nghệ này. Tỷ lệ tử vong mẹ ở giai đoạn này quanh quẩn khoảng 1%, với nguyên nhân chủ yếu là băng huyết sau sinh, sót hoặc rách nhau thai, hoặc nhiễm khuẩn hậu sản do rách âm đạo. Vô số phụ nữ khác bị tiểu tiện/đại tiện không tự chủ hoặc đau dai dẳng sau những cuộc sinh khó, trong khi chấn thương hoặc thiếu oxy khi sinh chắc chắn góp phần vào tỷ lệ tử vong sơ sinh khủng khiếp (cứ mười trẻ thì một chết trước sinh nhật đầu đời). Việc forceps vẫn còn được dùng đến tận hôm nay cho thấy chúng là một công cụ cực kỳ quý giá, và ta chỉ có thể đoán có bao nhiêu người đã được chúng cứu giúp.
Tuy vậy, lợi ích riêng của nhà Chamberlen cũng có thể hiểu được. Hết thế hệ này đến thế hệ khác, họ bị College of Physicians, triều đình, và các bà đỡ mà họ bất thành trong việc tổ chức khinh khi, gạt bỏ. Họ có lẽ không thấy lý do gì phải cho không “tài sản trí tuệ” của mình cho những người dường như chẳng mấy coi trọng nó. Kỳ lạ thay, việc chậm áp dụng forceps có thể đã bảo vệ một số phụ nữ. Khi forceps trở nên phổ biến, chúng được coi là dụng cụ cho bác sĩ, chứ không phải bà đỡ. Những bác sĩ ấy thường đi thẳng từ nhà xác vào phòng sinh, và điều này—cộng với việc không khử trùng cả bác sĩ lẫn dụng cụ—khiến tỷ lệ tử vong mẹ vẫn cao cho đến tận thế kỷ 19.
Tại Vương quốc Anh, hiện nay khoảng một trên mười ca sinh ngả âm đạo vẫn cần dùng forceps, với thiết kế hầu như không thay đổi so với phát minh của nhà Chamberlen.










































