Marseille tự hào với biệt danh la cité phocéenne – “thành phố Phocaea”. Cái tên này bắt nguồn từ Phokaia, một thành bang Hy Lạp ở Ionia (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), cách đó hơn 2.000 km. Câu chuyện thuộc địa hóa của người Hy Lạp đã nối liền hai đầu Địa Trung Hải ấy. Marseille – hay Massalia/Massilia theo tên những người sáng lập – khởi đầu là một tiền đồn nhỏ ở phương tây khoảng năm 600 TCN, rồi phát triển thành một trong các đô thị Hy Lạp quan trọng nhất ở phía tây đảo Sicilia. Nổi tiếng về y học, rượu vang và các nhà thám hiểm, Massalia đóng vai trò lớn trong việc định hình lịch sử Tây Địa Trung Hải.
Thời đại thuộc địa hóa của người Hy Lạp

Cư dân các polis (thành bang) Hy Lạp từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 5 TCN là những thủy thủ lão luyện, đi khắp Địa Trung Hải và Hắc Hải. Nhiều người không trở về quê nhà mà lập cư, dựng nên những đô thị Hy Lạp từ Krym đến Tây Ban Nha. Bờ nam Hắc Hải, vùng biển Aegea phía đông, Nam Ý và Sicilia đều có cộng đồng Hy Lạp đông đúc – nhiều nơi tồn tại đến tận thế kỷ 20 và vẫn để lại di sản đến nay.
Không có một “mẫu hình” hay động cơ duy nhất cho việc lập thuộc địa. Thông thường, thuộc địa là một tiền đồn nhỏ trên hoặc gần bờ biển. Một polis gồm trung tâm đô thị và vùng phụ cận (chora); thuộc địa cũng vậy, dù ít nơi kiểm soát lãnh thổ rộng. Quan hệ với cư dân bản địa rất đa dạng: từ hợp tác, chung sống đến xung đột và phân cách.

Massalia có thể là ví dụ về một hiện diện nhỏ, kín đáo: mang đến ý tưởng, sản phẩm, kỹ thuật mới và được đón nhận (hoặc chí ít là dung nạp). Điều này trái với kiểu thuộc địa hiếu chiến – chiếm đất màu mỡ và gạt ra bên lề (thậm chí bắt làm nô lệ) cư dân bản xứ – thấy ở một phần Sicilia. Cũng có những thuộc địa nằm bên rìa các cộng đồng hùng mạnh và phải chấp nhận vị thế lệ thuộc nhất định, như trường hợp ở Ai Cập.
Thông thường, thuộc địa do một polis “phái đi”, trong đó Phokaia, Miletos, Chalkis và Eretria là những trung tâm nổi bật. Dù không phải cường quốc trong lịch sử Hy Lạp hậu kỳ, Phokaia rất quan trọng ở Ionia thời cổ: với các hải cảng tuyệt hảo trên bờ Aegea phía đông, người Phokaia được cho là những thủy thủ viễn dương tiên phong (Herodotus 1.163). Khi Phokaia bị Ba Tư đe dọa vào thế kỷ 6 TCN, dân thành đã xuống thuyền, hướng sang Tây Địa Trung Hải.
Động cơ “đẩy – kéo” rất đa dạng. Liên hệ thương mại giữa Hy Lạp với Đông và Tây Địa Trung Hải đôi khi đã có từ thời Mycenae (Graham, 2006, tr. 95). Người Phokaia nổi tiếng năng động trong thương mại. Ở quê nhà, khảo cổ cho thấy dân số Hy Lạp tăng từ thế kỷ 8 TCN – trùng với làn sóng lập thuộc địa (Graham, 2006, tr. 157). Dân số tăng có thể thúc đẩy nhu cầu đất đai, gây bất ổn chính trị. Dư dân hoặc phe thất thế trong nội chiến có thể được “gửi đi” tìm vận may nơi khác.
Huyền thoại lập đô

Nhiều phiên bản về chuyện lập đô Massalia được các tác giả đời sau ghi lại. Khi một polis lập thuộc địa, thường theo một khuôn mẫu: hỏi ý thần linh (thường đến đền sấm Delphi), thề nguyện, và cử một quý tộc địa phương làm thủ lĩnh – “người sáng lập”.
Một câu chuyện phổ biến đặt nguồn gốc Massalia trong một lễ cưới. Có hai dị bản do Justin (thế kỷ 2 SCN, 43.3) và Athenaeus (thế kỷ 4 SCN, 13.36) truyền lại: người Phokaia cập cửa sông Rhône và được mời dự đám cưới của vua Nannus/Nanos. Theo tục lệ, công chúa Gyptis/Petta sẽ chọn chồng bằng cách trao bát rượu trong tiệc. Bất ngờ, nàng chọn Protis (hay Euxenus) – một người Phokaia dự tiệc. Vua tôn trọng lựa chọn ấy và cho phép người Phokaia dựng thành – chính là Massalia.

Sự lẫn lộn tên gọi cho thấy khó coi đây là ghi chép chính xác. Nhưng nó có thể “kịch hóa” một yếu tố then chốt trong việc lập Massalia. Rõ ràng, người Phokaia không đi bừa đến cửa sông Rhône: họ đã biết vùng đất này và có lẽ đã có quan hệ với cư dân bản địa. Vì các đoàn lập thuộc địa đa phần là đàn ông (Graham, 2006, tr. 147), hôn phối là nhu cầu tất yếu. Rất có thể, câu chuyện phản ánh một thỏa thuận thương lượng sinh lợi cho cả đôi bên.
Một câu chuyện khác cũng đề cao vai trò phụ nữ. Strabo (4.1.4) kể rằng trước khi xuất phát, theo lời sấm truyền, người Phokaia đến Ephesos tìm người dẫn đường. Đền Artemis ở Ephesos thiêng với mọi người Ionia. Tại đây, một phụ nữ quý tộc tên Aristarcha mộng thấy nữ thần truyền lệnh lên đường và rước theo các vật thiêng của đền. Aristarcha đi cùng đoàn, đến Massalia thì làm nữ tư tế. Từ đó, cư dân Massalia duy trì tín ngưỡng Artemis gắn kết với quê cũ.
Dù Strabo có lẫn lộn với cuộc di tản Phokaia vài thập kỷ sau, câu chuyện vẫn hé mở nhiều điều về sợi dây tôn giáo–văn hóa giữa “mẹ thành” và thuộc địa.
Bằng chứng khảo cổ

Khảo cổ ở Marseille và vùng phụ cận cho thấy đô thị được lập khoảng 600 TCN (Hansen & Nielsen, 2004, tr. 159). Như chuyện “đám cưới Protis” gợi ý, người Phokaia đã biết khu vực này. Từ thế kỷ 8 TCN, người Hy Lạp đã đến Ý và Sicilia, tiếp xúc với Carthage, Etrusca và La Mã sơ kỳ. Người Etrusca có mạng lưới liên hệ mạnh với Nam Gaule và người Liguria (Lucas, 2019, tr. 69).
Với kinh nghiệm thương mại, người Phokaia chắc chắn thăm dò tuyến mậu dịch Tây Địa Trung Hải. Một mặt hàng quan trọng từ Bắc và Tây Âu là thiếc – thành phần thiết yếu của đồng thiếc. Massalia là một trong vài thuộc địa Phokaia ở miền nam Pháp, Corse và Tây Ban Nha, có điều kiện tiếp cận tuyến thiếc. Các thuộc địa Phokaia nhìn chung không cố gắng chiếm hữu vùng hậu phương rộng, cho thấy mối quan tâm chính là thương mại (Graham, 2006, tr. 140).

Vị trí Massalia có sức hút rõ rệt: thành được dựng trên những đồi nhìn xuống cảng tự nhiên tốt bậc nhất vùng – Vieux Port ngày nay. Đồi và đầm lầy gần đó thuận lợi phòng thủ, còn cảng thì kín gió. Về phía đông là Ý và mạng lưới Etrusca; ngay phía tây là cửa sông Rhône, mở đường vào hàng hóa Bắc Âu.
Mối hôn phối của Protis gợi một quan hệ hợp tác với cư dân Nam Gaule. Người Massalia có thứ rất hấp dẫn: rượu vang. Strabo (4.1.5) mô tả vùng này hợp trồng nho và ôliu nhưng kém lúa mì. Rượu vang do người Massalia mang đến nhanh chóng được ưa chuộng và làm biến đổi xã hội Celt địa phương: uống rượu và lễ nghi tiệc rượu thành một phần (thậm chí là dấu hiệu) của đời sống tinh hoa Celt, trong khi Massalia thống lĩnh thương mại khu vực.
Dù vậy, việc xây tường thành ngay từ sớm cho thấy thiện chí của người bản địa không thể trông cậy hoàn toàn. Trước khi kể chuyện hôn nhân của Protis, Justin đã cho biết người Massalia phải giao chiến với các bộ tộc hung hãn. Ông còn có một chuyện đáng chú ý về thế hệ thứ hai: kế vị của Nonnus (có lẽ là Nannus) âm mưu cùng người Liguria tấn công Massalia; mưu đồ chỉ bị phá vì một phụ nữ bản địa yêu một người Hy Lạp đã báo tin. Từ đó, người Massalia cảnh giác hơn với ngoại nhân.
Massalia cũng có những kẻ thù khác. Nhiều tư liệu nhắc đến các trận chiến với Carthage; có trận người Massalia tự nhận chiến thắng. Massalia có thể liên quan đến câu chuyện người tị nạn Phokaia chạy trốn trước cuộc tấn công của Ba Tư khoảng 545 TCN; Strabo dường như đã lẫn câu chuyện Aristarcha với biến cố này – dẫn đến thuộc địa Phokaia ở Corse bị Carthage và Etrusca đánh bật.
“Ảnh hưởng khai hóa”?

Dù có kẻ thù, Massalia vẫn sống sót và hưng thịnh. Bên trong tường thành, thành phố sớm có đủ đặc trưng của một đô thị Hy Lạp: đền thờ Artemis xứ Ephesos và Apollo xứ Delphi trên các đồi nhìn xuống cảng (dù chưa tìm thấy di tích), chợ (agora) và công trình cảng ở khu Vieux Port. Thời cực thịnh, Massalia có thể đạt ~20.000 dân.
Như mọi polis, Massalia có chính thể riêng. Theo Strabo, đó là một quý trị hẹp, gồm hội đồng 600 người và một ủy ban chấp hành nhỏ. Muốn làm nghị viên, gia đình phải là công dân ít nhất ba đời. Các nguồn còn cho biết nhiều gia đình ở Massalia tự nhận là hậu duệ của Protis sau 300 năm (Athenaeus, fr. 549), cho thấy một xã hội bảo thủ, giữ gìn dòng dõi và căn tính.
Sau khi thành lập, Massalia trở thành đô thị lớn của thế giới cổ điển. Ngoài việc đưa rượu vang vào xã hội Celt, Massalia còn truyền bá các yếu tố Hy Lạp khác như chữ cái và tiền bạc bằng bạc (Bouffier, 2009). Thành kiến của các tác giả Hy–La khiến họ mô tả Massalia như một ngọn hải đăng văn minh, dạy “man di” Nam Gaule các nghệ thuật của đời sống văn minh như tường thành, vườn nho, pháp luật.
Các học giả ngày nay, trái lại, thừa nhận tác nhân tính mạnh mẽ của cư dân Gaule trong quan hệ với Massalia. Người Massalia trở nên hùng mạnh về thương mại và quân sự ở Nam Gaule, lập thêm các thuộc địa như Agathe (Agde) và Nikaia (Nice) – ban đầu là pháo đài, về sau thành thị trấn lớn. Tuy nhiên, tiếng Hy Lạp không trở thành ngôn ngữ trội như ở Nam Ý và Sicilia; tầng lớp tinh hoa địa phương chọn lọc và “bản địa hóa” các yếu tố Hy Lạp phù hợp (Lucas, 2019, tr. 73).
Người Massalia tiếp nối truyền thống hàng hải Phokaia và sản sinh vài nhà thám hiểm lớn của Hy Lạp cổ đại. Nổi tiếng nhất có lẽ là Pytheas (thế kỷ 4 TCN), người được cho là đã thám hiểm Bắc Âu, đặt chân tới Quần đảo Anh và vùng Thule huyền bí (có thể là Orkney đến Iceland).
Massalia thời La Mã
Như nhiều đô thị Hy Lạp khác, lịch sử hậu kỳ của Massalia gắn chặt với La Mã. Có truyền thuyết cho rằng tình hữu nghị giữa đôi bên đã có từ sớm, thậm chí người Massalia còn giúp La Mã sau khi thành bị người Gaule cướp phá năm 390 TCN (Justin 43.5). Chiến thắng của La Mã trước Carthage ở thế kỷ 3–2 TCN đã “đáp lễ” bằng cách loại một đối thủ thương mại chính của Massalia, đồng thời tăng thế thống trị thương mại của thành (Bouffier, 2009). Khi La Mã vượt dãy Alps vào Nam Gaule (thế kỷ 2 TCN), họ lại bảo hộ Massalia trước các cuộc tấn công. Một tỉnh La Mã dần hình thành quanh thành phố, nhưng Massalia vẫn còn tự trị. Dẫu hưởng lợi, dần dần quyền lực mới lấn át đô thị cũ: hoạt động thương mại rơi vào tay người La Mã, và trọng tâm khu vực chuyển về những trung tâm La Mã như Narbonne (Bouffier, 2009).
Đến khi người Massalia chọn sai phe trong nội chiến La Mã và bị Julius Caesar vây hãm năm 49 TCN, thành đã được cho là suy tàn. Tuy vậy, Massalia vẫn được kính trọng trong mắt người La Mã, nổi danh về trường y, triết học và ảnh hưởng “khai hóa” của mình. Strabo (4.1.5) cho hay, vào thế kỷ 1 TCN, nhiều người La Mã ưa Massalia hơn cả Athens – một lời khen hiếm hoi dành cho thành phố do người Phokaia khai dựng.










































