Năm 1786, Công ty Đông Ấn Anh đặt hàng các nhà công nghiệp Birmingham là Matthew Boulton và James Watt đúc tiền. Sử dụng những động cơ hơi nước mang tính cách mạng tại xưởng Soho ở ngoại ô Smethwick, trong vài thập niên tiếp theo Boulton và Watt đã sản xuất hơn 220 triệu đồng xu, được đóng bằng lối chữ Ba Tư duyên dáng mà Công ty Đông Ấn vay mượn từ Đế quốc Mughal. Khi những chú ngựa Shire bắt đầu kéo các xà lan chở đầy kim loại quý theo con kênh từ Birmingham – chặng đầu tiên trên hành trình đến Calcutta – đó cũng là lúc mối lương duyên giữa thành phố này với tiểu lục địa Ấn Độ khởi đầu, kéo dài đến tận ngày nay.
Hiện Birmingham có một trong những cộng đồng Hồi giáo lớn nhất châu Âu. Chủ yếu là người gốc Ấn–Pakistan, cộng đồng này thường được cho là bắt nguồn từ thập niên 1960, khi nhu cầu lao động cho các nhà máy đang bùng nổ của thành phố cũng thu hút người Hindu và Sikh nhập cư. Thực ra, cội rễ của “Brum Hồi giáo” còn sớm hơn cả trăm năm: các phương thức sản xuất làm thay đổi thế giới do Boulton và Watt tiên phong đã kéo một loạt du khách Hồi giáo từ Ấn Độ sang Anh trong những chuyến tham quan công nghiệp. Nghe có vẻ lạ hôm nay, nhưng Birmingham thời Victoria và vùng Black Country lân cận từng là những điểm du lịch quốc tế nổi tiếng.
Một số “du khách công nghiệp” đến từ Ấn Độ đã viết những bản tường thuật chi tiết về chuyến đi để độc giả quê nhà hiểu về thế giới mới đang hình thành trong các nhà máy chạy bằng hơi nước của thành phố. Viết bằng tiếng Ba Tư và Urdu – hai ngôn ngữ văn học chủ đạo của người Hồi giáo Nam Á – các du ký này cho thấy Cách mạng Công nghiệp đã được người đọc không chỉ ở Ấn Độ thuộc Anh mà cả ở các bang như Hyderabad và Rampur (vẫn dưới quyền Hồi giáo cho đến năm 1947) tiếp nhận và giải thích như thế nào. Tuy nhiên, trước khi đến với các du ký ấy, ta hãy nối lại mạch lịch sử giữa những đồng tiền chữ Ba Tư kia với sự xuất hiện của các tác giả vào thập niên 1880–1890.
Bán “quyền lực”
Xưởng Soho của Boulton và Watt đã thu hút khách quốc tế ngay từ đầu thế kỷ 19. Sự đa dụng của các động cơ hơi nước do họ chế tạo nổi tiếng đến mức Boulton từng hóm hỉnh nói với một vị khách: “Thưa ngài, ở đây tôi bán thứ mà cả thế giới khao khát—QUYỀN LỰC.” Không ngạc nhiên khi tin tức về tiềm năng của những cỗ máy ấy lan đi khắp nơi.
Năm 1813, có đơn đặt hàng từ Nawwab Sa‘adat Ali Khan II, người cai trị xứ Awadh ở Bắc Ấn, yêu cầu một máy và bơm để rút nước khỏi đoạn sông đắp đập, nhằm lắp một cây cầu nhập khẩu. Sau đó, cỗ máy sẽ được chuyển sang dùng để vận hành đài phun trong khu vườn xinh đẹp quanh cung điện của nawwab ở Lucknow. Cách trụ sở Công ty Đông Ấn tại Calcutta tới 600 dặm ngược dòng, Lucknow tiên phong trong việc người Hồi giáo tiếp nhận không chỉ động cơ hơi nước mà cả máy in—vì trước đó cả giới Hồi giáo Ấn Độ và Trung Đông đều chưa bước vào “cuộc cách mạng Gutenberg” tràn qua châu Âu các thế kỷ trước. Năm 1820, người kế vị Sa‘adat Ali thuê một thợ cơ khí người Anh dựng nên một trong những nhà in do người Hồi giáo kiểm soát sớm nhất thế giới.

Nhà in Hoàng gia Lucknow xuất bản sách bằng tiếng Ba Tư và Urdu, đòi hỏi bộ chữ kim loại đắt tiền cho dạng chữ Ả Rập mở rộng mà hai ngôn ngữ này sử dụng. Vài chục năm sau, các doanh nhân địa phương tìm ra cách hiệu quả hơn để in những ngôn ngữ này bằng cách thích nghi kỹ thuật in thạch bản mới. Phát minh tại Đức năm 1796 để in nhạc, in thạch bản được Công ty Đông Ấn đưa vào Calcutta để in bản đồ. Rồi tại Lucknow, công nghệ văn hóa đa năng của cuộc công nghiệp hóa xa xôi ấy đã cách mạng hóa việc sản xuất sách cho người Hồi giáo và cả các cộng đồng Ấn khác.
Cùng thời điểm nhà in Hoàng gia ra đời ở Lucknow, một lưu học sinh Iran, Mirza Salih Shirazi, đến London học nghề in. Ông rốt cuộc học được nhiều hơn thế, và trong du ký đã ghi chép mọi điều có thể về ‘ulum-e jadid – “các khoa học mới”, trong đó có lẽ là mô tả sớm nhất về Birmingham bằng tiếng Ba Tư. Nhắc đến các xưởng vũ khí đang cung cấp cho công cuộc bành trướng quân sự của Công ty Đông Ấn, ông viết:
“Ở Birmingham có một khu nổi tiếng chế tạo binh khí chiến tranh, gồm súng hỏa mai, gươm, súng lục, dao găm và đủ loại vũ khí khác: có vô số trạm làm việc, và từng đám đông người bận rộn ở đó.”
Tuy nhiên, đây là mô tả truyền miệng, vì Mirza Salih tuy ghé nhiều xưởng đồng thau, dệt và giấy chạy hơi nước gần Bristol và Oxford, nhưng không đến Birmingham. Thanh danh của thành phố đã vang xa.

Bước sang thế kỷ 19—khi các ngành nghề nở rộ khiến Birmingham được mệnh danh là “Thành phố Ngàn Nghề”—giới tinh hoa Hồi giáo quyết định tự mình chiêm nghiệm cái “lò nung” của hiện đại công nghiệp. Tháng 9/1865, ba người con của Mansur Ali Khan, Nawwab Nazim xứ Bengal, đi thị sát xưởng Soho và các nhà máy khác. Năm năm sau, chính Mansur Ali thăm vùng Black Country lân cận, ghé Round Oak Iron Works và Patent Shaft and Axletree Company (công ty này chuyên xây cầu, không chỉ để xuất khẩu sang Ấn Độ; năm 1885 họ dựng cây cầu thép toàn phần đầu tiên bắc qua sông Hằng ở Varanasi). Một bài trên The Engineer thời đó mô tả cảnh Mansur Ali và đoàn tùy tùng Bengal:
“đi xuống các nhà đúc, kinh ngạc nhìn dòng sắt nóng chảy tuôn từ lò, uốn lượn như rắn… phun ra một khối lượng lớn lửa và tia lửa buộc họ phải vội vã rút lui vì sức nóng dữ dội.”
Đến thập niên 1950, những điều kiện như vậy lại là trải nghiệm hằng ngày của công nhân Hồi giáo nói tiếng Bengal làm việc cho các hãng như Lavender & Co. ở Smethwick.
Những vị khách danh giá
Nhiều tường thuật trực tiếp về các chuyến thăm sớm ấy còn lưu. Được in bằng chính công nghệ in thạch bản từng chuyển giao tới Lucknow, các văn bản tiếng Ba Tư và Urdu này tự thân đã là sản phẩm của cuộc gặp gỡ giữa người Hồi giáo Ấn Độ với công nghiệp hóa.
Khi Mir La’iq Ali Khan—còn được biết đến với tước hiệu danh dự Sir Salar Jung II—đến Birmingham cùng đoàn Hồi giáo Ấn của mình vào tháng 9/1887, thành phố là điểm kết của một chuyến đại du cũng đã ghé Athens, Rome, Vienna và Paris. Thế nhưng trong du ký tiếng Ba Tư in thạch bản xuất bản hai năm sau, các nhà máy vùng Midlands được mô tả bằng lối văn hoa mỹ tương tự như đền đài và bảo tàng Địa Trung Hải. Tháng 11/1893, một nhà quý tộc Hồi giáo Ấn khác, Hamid Ali Khan, đến Birmingham sau một hành trình vòng quanh thế giới dài hơn, qua Trung Quốc, Nhật Bản và Hoa Kỳ—tất cả do “ông tổ du lịch đại chúng” Thomas Cook sắp đặt. Hamid Ali cũng xuất bản một cuốn sách in thạch bản về chuyến đi, nhưng bằng tiếng Urdu. Rồi năm 1895, Nasrullah Khan—thái tử Afghanistan—tới Birmingham trong chuyến xuất ngoại đầu tiên của một thành viên hoàng tộc nước này; hành trình được sử quan triều đình ghi lại bằng tiếng Ba Tư.
Đây hoàn toàn không phải những kỳ nghỉ phù phiếm. Từng là thủ tướng Hyderabad—một bang phiên thuộc do người Hồi giáo cai trị ở miền trung Ấn—La’iq Ali gánh những trách nhiệm nặng nề, gồm cả đường sắt và công nghiệp khai mỏ non trẻ của bang. Về phần mình, Hamid Ali vừa kế vị quyền cai trị Rampur—một bang phiên ở bắc Ấn nổi tiếng với truyền thống thủ công kim loại và chế tác vũ khí. Còn với Nasrullah Khan, vai trò của Birmingham trong việc cung cấp súng cho hai đạo quân Anh từng xâm lược Afghanistan nửa thế kỷ trước khiến thành phố mang ý nghĩa đặc biệt. Cả ba đều hiểu rõ tầm quan trọng của các phương pháp sản xuất mới trong nhà máy Birmingham, và hiển nhiên nóng lòng mục sở thị. Lặp đi lặp lại, La’iq Ali dùng từ Ba Tư tamasha—“kỳ cảnh đáng kinh ngạc”—để miêu tả máy móc ông quan sát.

Được Nữ hoàng Victoria phong hiệp sĩ ngay khi ở Anh, La’iq Ali được các chủ xưởng trọng thị tiếp đón. Điểm dừng đầu tiên trong tour công nghiệp của ông là nhà máy Birmingham Small Arms (BSA), nơi tiên phong cơ giới hóa sản xuất súng trường từ thập niên 1860, khi Birmingham còn là “xưởng súng của thế giới”. Từ đúc ống, khoan nòng đến lắp cò và báng súng, La’iq Ali mô tả các công đoạn qua chuỗi máy khác nhau; nhờ vậy, theo ông, một nghìn công nhân của BSA làm ra 200 khẩu súng mỗi ngày. Ấn tượng về chất lượng, ông mua liền hai chục khẩu súng săn.
Các xưởng súng danh tiếng cũng nằm đầu danh sách của Hamid Ali—có lẽ vì Rampur có truyền thống làm súng thủ công, tập trung ở Banduqi Chowk (“Chợ Súng”) gần cung điện ông. Ông cũng đến BSA, rồi Kynoch & Co. chuyên đạn dược, kế đến là Proof House, mà ông giải thích được lập năm 1813 theo đạo luật (Gun-Barrel Proof Act) buộc mọi khẩu súng phải kiểm định trước khi bán. BSA và Kynoch cũng là điểm đến của Thân vương Nasrullah Afghanistan và các con trai của Nawwab Nazim xứ Bengal; họ dành nhiều giờ xem súng đạn sản xuất cho đồng minh một thời của Anh: Quốc vương Ottoman Abdul Hamid II.
Trở lại với La’iq Ali, chặng tiếp theo là Kingston Metal Works, nơi cung ứng ống áp lực cao và nồi hơi cho tàu thủy toàn cầu—có lẽ gồm cả tàu P&O Peshawur mà La’iq Ali đi từ Bombay và ông đã tả cả phòng máy. Địa điểm tương ứng Hamid Ali thăm là Cornwall Works ở Smethwick, nơi ông khảo sát động cơ thủy lực và thiết bị bơm dùng ở các hải cảng và hầm mỏ khắp Đế quốc Anh lẫn Ottoman.
Sau khi xem máy móc hạng nặng, cả hai vị khách đều ghé thăm thứ mà La’iq Ali gọi là “karkhana-ye sar-e qalam-sazi” – xưởng sản xuất ngòi bút. Đối chiếu du ký của ông với tin báo địa phương cho thấy đó là Gillott & Sons, nơi La’iq Ali bắt gặp một trong những phát minh có ảnh hưởng lớn mà ít được tán dương của Birmingham. Năm 1828, doanh nhân bản địa Josiah Mason tìm ra cách sản xuất hàng loạt ngòi bút từ tấm thép. Hai năm sau, Joseph Gillott lập công ty mang tên mình, xây Victoria Works nguy nga vẫn còn đứng đó đến nay, đối diện đối thủ cũ Albert Works, nơi từng tận dụng hơi dư của động cơ để vận hành “Hammam hay Nhà tắm Thổ Nhĩ Kỳ” trên tầng cao nhất. (Hôm nay tòa nhà là Bảo tàng Bút của thành phố.)

Victoria Works của Gillott từng đón vô số thượng khách, từ Hoàng đế Franz-Joseph, Tổng thống Ulysses S. Grant, Quốc vương Iran Nasir al-Din Shah, đến Hoàng thân Albert của Anh. Đến thời các vị khách Ấn Độ ghé thăm, các xưởng bút Birmingham đã xuất khẩu hàng triệu ngòi mỗi năm sang tiểu lục địa, đóng gói với thương hiệu tiếng Ba Tư và Urdu như “Afsar” (“Vương miện”) và “Rasikh” (“Đáng tin cậy”). Tổng cộng, từ 1830 đến 1914, Birmingham sản xuất con số kinh ngạc 70.000.000.000 ngòi bút thép.
Sau chuyến thăm, Hamid Ali cẩn thận giải thích cho độc giả từng công đoạn làm ngòi, đặc biệt là cách tận dụng máy móc có thể vận hành chỉ bằng một chân, để đôi tay công nhân rảnh làm việc khác. Cũng ấn tượng không kém là độ tinh xảo, kết lại bằng việc dập thương hiệu li ti lên từng chiếc ngòi. Song điều làm La’iq Ali và Hamid Ali ngạc nhiên hơn cả là số lượng phụ nữ làm việc, bởi ngành bút là nơi sử dụng lao động nữ lớn thứ hai ở Birmingham (sau dịch vụ gia đình). “Tất cả công nhân đều là các cô gái trẻ,” La’iq Ali viết, “chỉ có vài người đàn ông ở cuối xưởng trông coi ‘bánh xe hơi nước’”—cách ông gọi động cơ. Hamid Ali bổ sung rằng ngay cả quản đốc cũng là “một quý bà”. Kết thúc chuyến thăm, bà tặng ông một hộp sang trọng chứa các loại ngòi và ống cắm.
Cả hai người Ấn Độ cũng ghé các xưởng kim băng gần đó; La’iq Ali giải thích cho độc giả cách dùng hơi nước cho phép 170 trạm làm việc tại Newhall Works sản xuất 200 chiếc/phút ở mỗi trạm. Năm năm sau, Hamid Ali ghi nhận Phipson & Sons đã chuyển sang máy chạy điện cho dây chuyền kim băng. Lần nữa, cả hai đều nhấn mạnh đến lượng lao động nữ đông đảo tại đây.
Nghệ thuật thủy tinh
Nếu như kim băng và ngòi bút Birmingham xuất khẩu được hàng triệu người Ấn – cả nam lẫn nữ – sử dụng hằng ngày, thì sản phẩm từ các nhà máy thủy tinh của thành phố lại phục vụ tầng lớp người tiêu dùng Hồi giáo giàu có hơn ở cả Trung Đông lẫn Nam Á. Năm 1847, nhà cai trị Ai Cập Ibrahim Pasha đặt hãng F.&C. Osler ở phố Broad Street, Birmingham, chế tác một đôi “chân đèn khổng lồ” để thắp sáng lăng mộ của Nhà Tiên tri Muhammad tại Medina. Nửa thế kỷ sau, nữ vương Hồi giáo của Bhopal đặt Osler làm một khung cửa sổ theo hình tấm thảm cầu nguyện cho Taj al-Masajid (“Vương miện của các Thánh đường”) ở kinh đô của bà. Và trong chuyến thăm Birmingham năm 1895, thân vương Afghanistan Nasrullah đặt một đèn chùm pha lê cho đền thờ lưu giữ áo choàng của Nhà Tiên tri ở Qandahar.
La’iq Ali và Hamid Ali cũng đặc biệt quan tâm tới các xưởng thủy tinh của Birmingham. La’iq Ali ghé xưởng Osler, còn Hamid Ali đến Chance Brothers ở Smethwick gần đó. Hamid Ali ca ngợi nhà máy bảy tầng xây năm 1847 là một “tòa kiến trúc rộng lớn và tráng lệ”. Sau khi cung cấp kính cho Cung Pha Lê ở London năm 1851, Chance Brothers đa dạng hóa sản phẩm, từ thấu kính hải đăng đến bình đựng rượu, khiến Elihu Burritt – cựu lãnh sự Mỹ và là cư dân Birmingham lâu năm – phải thốt lên rằng “không nơi nào trên thế giới có thể cho người ta một ý niệm đầy đủ đến vậy về muôn mặt công dụng của thủy tinh như ở những xưởng khổng lồ này”. Hòa nhịp nhận xét ấy, Hamid Ali mô tả một dải sản phẩm đồ sộ với màu sắc rực rỡ từ hồng ngọc đến lục bảo. So sánh phương pháp của Chance với cách làm ở Ấn Độ, ông giải thích cho độc giả các bước của quy trình thổi và nấu thủy tinh, rồi trầm trồ trước khả năng chịu đựng sức nóng như hỏa lò của công nhân.

Một nơi khác mà cả hai vị khách Ấn Độ đều ghé là Elkington & Co., nơi từ năm 1850 đã đăng ký hàng loạt bằng sáng chế không chỉ về mạ điện (dùng điện phủ vàng hoặc bạc lên kim loại thường) mà còn cả đúc điện (electrotyping – sao chép vật kim loại, như một “tiền thân 3D printing” thời Victoria). Hamid Ali gọi nhà máy này là một “xưởng mỹ kim nghệ” – rất đúng, bởi Elkington đã nâng những phát minh của mình lên tầm đồ gia dụng và thậm chí mỹ thuật. Ngoài các chân đèn và thố súp mạ vàng, mạ bạc có thể đặt trong Versailles mà không hề lạc điệu, thập niên 1880 Elkington còn làm bản sao đúc điện của các bát đồng, thìa sirô và hòm đựng thời Trung đại Trung Đông – sao y hoa văn thư pháp Ả Rập và Ba Tư được khắc tỉ mỉ trên nguyên bản.
Sau khi được quản lý xưởng Elkington trình diễn quy trình (mà ông ghi lại chi tiết trong du ký), Hamid Ali được đưa lên phòng trưng bày xa hoa trên lầu, nơi người quản lý giới thiệu bản sao các tác phẩm trung đại bán với giá chỉ bằng một phần nhỏ so với bản gốc. Có phần bối rối, Hamid Ali ghi nhận rằng hai món trưng bày là khay khắc từ Moradabad – đô thị gia công kim loại nổi tiếng, biệt danh “Pital Nagri” (“Thành phố Đồng thau”) – nằm sát lãnh địa Rampur của ông.
Ngôn ngữ công nghiệp
Đối diện quá nhiều công nghệ mới, các vị khách Ấn Độ đôi khi lúng túng trong cách gọi tên. Viết bằng tiếng Ba Tư cổ điển – ngôn ngữ từng giữ vai trò “La-tinh của Ấn Độ” suốt tám thế kỷ – La’iq Ali gọi động cơ hơi nước là “charkh-e bukhar” (nghĩa đen: “bánh xe hơi nước”), nhấn vào bộ phận chuyển động dễ thấy nhất; và ông cũng dùng lại thuật ngữ trung đại dastgah (“bàn thợ thủ công”) để gọi muôn kiểu máy móc ông mục sở thị. Hamid Ali thì chọn viết bằng Urdu – ngôn ngữ bản địa mà các nhà cải cách Hồi giáo đang “nâng cấp” để theo kịp thế giới biến đổi nhanh chóng. Điều đó đồng nghĩa với việc mượn từ tiếng Anh cho hàng hóa và công nghệ mới, cho phép ông dùng các từ injan (engine), mashin (machine), pris (press), thậm chí nib (ngòi bút). Đến thập niên 1890 – tám chục năm sau khi Nawwab xứ Oudh đặt mua máy hơi nước Boulton & Watt – nhiều người Hồi giáo Bắc Ấn đã dùng máy móc Anh ngay trong đời sống. Như Amanda Lanzillo (Đại học Chicago) gần đây chỉ ra, Urdu khi ấy đã được dùng như ngôn ngữ giáo dục công nghiệp trong các sổ tay kỹ thuật, bao gồm cả kỹ thuật mạ điện do Elkington & Co. phát triển. Những gì La’iq Ali và Hamid Ali mô tả, vì vậy, không phải một thế giới xa lạ hoàn toàn, mà chính là nguồn gốc của vô số sản phẩm và công nghệ mà Birmingham xuất sang Ấn Độ. Cả hai đều không phê phán điều này. Họ là hậu duệ của các bang phiên thân Anh: trong Cuộc Đại Khởi Nghĩa 1857, Hyderabad và Rampur đã đứng về phía người Anh; chủ nghĩa dân tộc kinh tế ở Ấn Độ khi ấy chưa trỗi dậy.

Không phải toàn bộ thời gian ở Birmingham chỉ dành cho nhà máy. Riêng La’iq Ali dành nhiều trang cho đời sống văn hóa của thành phố, trong đó có Bảo tàng & Phòng Trưng bày Nghệ thuật vừa mở cửa. Ông ghi lại nhiều tác phẩm thủ công bày tại đây, kể cả đồ bạc Ấn Độ từ Kashmir và Lucknow do John Feeney, chủ tờ Birmingham Post (tòa soạn mà La’iq Ali cũng ghé thăm), hiến tặng trong năm. Buổi tối, ông đi xem kịch. Sau một vở kịch không rõ tên, ông tán dương hiệu ứng bão trên biển; sau khi xem The Queen of Fashion tại Nhà hát Prince of Wales, ông khen giọng hát tuyệt đẹp của “nữ diễn viên chính yêu kiều”. Trong một buổi hòa nhạc khác, Birmingham Post nhận xét ông được cho là “có tai nghe oratorio rất tinh”.
Về phần thân vương Afghanistan Nasrullah, ông kết lại hành trình tham quan nhà máy bằng cách đặt may tại tiệm đồ nam John Wormington hàng chục áo sơ mi, cà vạt, dây đeo quần, khăn choàng và đồ ngủ cho bản thân, cho các em trai và cho thân phụ—vị amir đang trị vì Afghanistan. Một bằng chứng thú vị cho thời kì Birmingham định hình thời trang cho hoàng gia Afghanistan: sổ đặt hàng của Wormington đến nay vẫn còn lưu tại Trung tâm Tư liệu Wolfson của Birmingham.
Khi rời thành phố bằng tàu hỏa, La’iq Ali ghi một đoạn văn miêu tả phong cảnh bằng tiếng Ba Tư đầy hình ảnh, gợi nhớ những bức tranh rực lửa lò luyện của họa sĩ địa phương Edwin Butler Bayliss. “Hai bên đường ray, phóng tầm mắt tới đâu cũng là nhà máy,” ông viết:
“Dọc đường, những đống tro hiện ra như chuỗi đồi nhỏ… Vẻ đẹp của tất cả nằm ở chỗ cỏ dại và thảo mộc phủ kín. Liên hồi những ngọn lửa phụt ra từ ống khói các xưởng, khiến từ xa mọi vật như đang van xin được thoát khỏi hủy diệt.”
Đến cuối thế kỷ 20, gần như tất cả những nhà máy từng đón Mansur Ali, La’iq Ali, Hamid Ali và Nasrullah đều đã đóng cửa. Nhưng trước đó, trong đợt bùng nổ cuối những năm 1950–60, chúng đã thu hút thêm rất nhiều người Hồi giáo Nam Á, lần này với tư cách công nhân chứ không còn là du khách. Ngày nay ở Smethwick, thư viện thời Victoria vẫn lưu hồ sơ của Chance Brothers và các công ty địa phương khác, cùng nhiều kệ sách tiếng Urdu.